Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 38/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 38/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 451/2021/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2022/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H; nơi cư trú: Thôn 4, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Vũ Trọng G; nơi cư trú: Thôn 4, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Vũ Thị H là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị và anh Vũ Trọng G kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 20 tháng 10 năm 1998. Sau lễ cưới, vợ chồng về chung sống cùng nhau tại thôn 4, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng đôi khi có phát sinh mâu thuẫn nhưng vẫn chung sống cùng nhau, đến năm 2019 thì mâu thuẫn trở nên trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng trong sinh hoạt, mỗi người một quan điểm một cách sống không còn phù hợp với nhau, giữa các thành viên trong gia đình cũng phát sinh mâu thuẫn. Mặt khác, kinh tế chung gia đình khó khăn, vợ chồng vì thế mà xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau, không còn quan tâm và yêu thương nhau. Vợ chồng hiện nay đã sống ly thân nhau. Nay, chị Vũ Thị H nhận thấy không còn tình cảm vợ chồng với anh G nên đề nghị được ly hôn với anh Vũ Trọng G. Chị và anh Vũ Trọng G có hai con chung tên Vũ Trọng T, sinh ngày 18 tháng 6 năm 1999 và Vũ Trọng C, sinh ngày 20 tháng 4 năm 2004. Khi ly hôn, chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Vũ Trọng C. Việc cấp dưỡng nuôi con do chị và anh G tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Con chung tên Vũ Trọng T đã thành niên và có khả năng lao động nên chị H không đề nghị Tòa án giải quyết. Chị và anh G có tài sản chung nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 29 tháng 12 năm 2021, anh Vũ Trọng G trình bày mong muốn vợ chồng đoàn tụ và không có quan điểm về con chung, về tài sản chung.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Vũ Thị H được ly hôn với anh Vũ Trọng G; đề nghị giao con chung tên Vũ Trọng C cho chị Vũ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Con chung tên Vũ Trọng T đã thành niên và có khả năng lao động nên không xem xét giải quyết. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của đương sự Bị đơn là anh Vũ Trọng G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Vũ Thị H xin ly hôn với anh Vũ Trọng G Chị Vũ Thị H và anh Vũ Trọng G kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng nên hôn nhân giữa chị H và anh G là hôn nhân hợp pháp. Do mâu thuẫn vợ chồng không thể hòa giải và xác định không thể tiếp tục chung sống cùng nhau nên chị Vũ Thị H làm đơn ly hôn với anh Vũ Trọng G. Tài liệu xác minh tại địa phương và các lời khai của đương sự thống nhất thể hiện: Cuộc sống chung vợ chồng giữa chị Vũ Thị H và anh Vũ Trọng G đã phát sinh mâu thuẫn từ năm 2015, sau khi được địa phương hòa giải vợ chồng tiếp tục chung sống cùng nhau. Đến năm 2019 mâu thuẫn giữa chị H và anh G trở nên trầm trọng, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng trong sinh hoạt, không có sự chia sẻ, tôn trọng và yêu thương nhau. Mâu thuẫn không chỉ trầm trọng giữa vợ và chồng, mà còn có sự mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình. Chị H và anh G đã sống ly thân nhau. Xét thấy, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và có thể tiếp tục duy trì phải là từ cả hai bên vợ và chồng; anh G mong muốn được đoàn tụ nhưng cũng không có hành động nào để chị H thay đổi quyết tâm xin ly hôn. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần tiến hành hòa giải nhưng anh G đều vắng mặt không có lý do.

Từ những căn cứ nêu trên cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị H xin ly hôn anh Vũ Trọng G.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị Vũ Thị H và anh Vũ Trọng G có 02 con chung tên Vũ Trọng T, sinh ngày 18 tháng 6 năm 1999 và Vũ Trọng C, sinh ngày 20 tháng 4 năm 2004. Khi ly hôn, chị H đề nghị được trực tiếp nuôi con chung tên Vũ Trọng C, còn con chung tên Vũ Trọng T đã thành niên và có khả năng lao động nên chị H không đề nghị Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định về đề nghị nuôi con của chị H như sau: Hiện nay, chị H đang làm công nhân ở thị trấn M, có thu nhập hàng tháng ổn định. Mặt khác, con chung tên Vũ Trọng C trình bày nguyện vọng được ở cùng với chị H. Anh Vũ Trọng G không có lời khai thể hiện quan điểm về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn.

Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện thực hiện việc nuôi con của đương sự và quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét giao cho chị Vũ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị Vũ Thị H không đề nghị Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, chị Vũ Thị H khai vợ chồng có tài sản chung và không đề nghị Tòa án giải quyết. Mặt khác không có lời khai của bị đơn là anh Vũ Trọng G về tài sản chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, chị Vũ Thị H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị H:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Vũ Thị H được ly hôn anh Vũ Trọng G.

2. Về con chung: Giao cho chị Vũ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Vũ Trọng C, sinh ngày 20 tháng 4 năm 2004 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Con chung tên Vũ Trọng T sinh ngày 18 tháng 6 năm 1999 đã thành niên và có khả năng lao động nên không xem xét giải quyết.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn: Các đương sự tạm thời không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng cho con.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0007672 ngày 25/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Vũ Thị H đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Vũ Trọng G có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 38/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:38/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về