Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 37/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 37/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 461/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2022/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị N; nơi cư trú: Thôn Tr, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn Đ; nơi cư trú: Thôn Tr, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Trần Thị N là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị và anh Bùi Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 12 tháng 12 năm 2003. Sau lễ cưới, vợ chồng vể chung sống cùng nhau tại thôn Tr, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng nhiều lần phát sinh mâu thuẫn nhưng vẫn chung sống cùng nhau, đến năm 2020 thì mâu thuẫn trở nên trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, bất đồng trong sinh hoạt. Mặt khác, anh Đ không có việc làm, thu nhập không ổn định. Vợ chồng vì thế mà xảy ra cãi mắng lẫn nhau thường xuyên, tình cảm phai nhạt, không còn quan tâm đến nhau. Nay, chị Trần Thị N nhận thấy không còn tình cảm vợ chồng với anh Đ nên đề nghị được ly hôn với anh Bùi Văn Đ. Chị và anh Bùi Văn Đ có một con chung tên Bùi Anh T, sinh ngày 28 tháng 8 năm 2004. Khi ly hôn, chị N đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Việc cấp dưỡng nuôi con do chị và anh Đ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị và anh Đ có tài sản chung nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Bùi Văn Đ là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác, song đến ngày mở phiên tòa anh Đ vẫn không có văn bản trình bày ý kiến về quan hệ hôn nhân, con chung và tài sản chung. Quá trình Tòa án lấy lời khai tại nhà, anh Bùi Văn Đ từ chối ký biên bản.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Trần Thị N được ly hôn với anh Bùi Văn Đ; đề nghị giao con chung tên Bùi Anh T cho chị Trần Thị N trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của đương sự Bị đơn là anh Bùi Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn. [2] Về yêu cầu của chị Trần Thị N ly hôn với anh Bùi Văn Đ Chị Trần Thị N và anh Bùi Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng nên hôn nhân giữa chị N và anh Đ là hôn nhân hợp pháp. Do mâu thuẫn vợ chồng không thể hòa giải và xác định không thể tiếp tục chung sống cùng nhau nên chị Trần Thị N làm đơn ly hôn với anh Bùi Văn Đ. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện: Chị N và anh Đ sinh sống ổn định tại thôn Tr, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng từ năm 2003 cho đến nay. Cuộc sống chung vợ chồng đến năm 2020 đã nảy sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp, kinh tế chung gia đình không có sự thống nhất và phát triển. Bản thân anh Bùi Văn Đ không có việc làm ổn định dẫn đến tâm lý vợ chồng chán nản, mệt mỏi, không còn tôn trọng và yêu thương lẫn nhau. Xét thấy, hôn nhân hạnh phúc phải bắt nguồn từ cả hai bên vợ và chồng. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, chị Trần Thị N khẳng định không còn tình cảm vợ chồng và giữ nguyên đề nghị được ly hôn với anh Bùi Văn Đ; anh Bùi Văn Đ vắng mặt tại các buổi hòa giải và tại phiên tòa dẫn đến việc không thể hòa giải.

Từ những căn cứ nêu trên cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị N xin ly hôn anh Bùi Văn Đ.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị Trần Thị N và anh Bùi Văn Đ có 01 con chung tên Bùi Anh T, sinh ngày 28 tháng 8 năm 2004. Khi ly hôn, chị N đề nghị được trực tiếp nuôi con chung. Hội đồng xét xử xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định như sau: Chị N hiện đang buôn bán tự do, có điều kiện về thời gian và thu nhập hàng tháng để thực hiện việc nuôi con. Mặt khác, con chung Bùi Anh T trình bày nguyện vọng được ở cùng với chị N. Anh Bùi Văn Đ không có lời khai thể hiện quan điểm về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn.

Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện thực hiện việc nuôi con của đương sự và quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét giao cho chị Trần Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị Trần Thị N không đề nghị Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, chị Trần Thị N khai vợ chồng có tài sản chung và không đề nghị Tòa án giải quyết. Mặt khác không có lời khai của bị đơn là anh Bùi Văn Đ về tài sản chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, chị Trần Thị N phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị N:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trần Thị N được ly hôn anh Bùi Văn Đ.

2. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Bùi Anh T, sinh ngày 28 tháng 8 năm 2004 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn: Các đương sự tạm thời không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng cho con.

3. Về án phí: Chị Trần Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0007684 ngày 01/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Trần Thị N đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Bùi Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 37/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về