Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 03/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 03 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Ducmg mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 63/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2022 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 21/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Vũ Tuyết A, sinh năm 1996. HKTT: Tổ 7, ấp H, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Xuân N, sinh năm 1994. HKTT: Ấp H1, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn bà A có mặt, bị đơn ông N vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia t tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Vũ Tuyết A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà A và ông N chung sống tự nguyện với nhau từ năm 2020, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L ngày 30/7/2020.

Trong thời gian chung sống, hai vợ chồng thường bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông N thường xuyên tham gia cờ bạc, vay tiền xã hội đen dẫn đến phá tán tài sản gia đình. Bà A và ông N đã không còn sống chung với nhau hơn 01 năm nay. Cuộc sống vợ chồng đã không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà A làm đơn xin ly hôn với ông N.

- Con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Xuân P, sinh ngày 08/4/2021. Bà A yêu cầu nuôi con và không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, nguyên đơn có cung cấp cho Tòa án: 01 đơn xin ly hôn; 01 giấy chứng minh nhân dân nguyên đơn (bản sao có chứng thực), 01 sổ hộ khẩu thường trú của nguyên đơn (bản sao có chứng thực), 01 giấy chứng nhận kết hôn (bản chính), 01 giấy khai sinh của con (bản sao), 01 bản tự khai của nguyên đơn (bản chính); 01 đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải.

Ngoài ra, bà A không có trình bày hay không cung cấp chứng cứ gì thêm.

* Bị đơn ông Nguyễn Xuân N:

Ông N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia giải quyết vụ án nhưng ông N vắng mặt không có lý do nên không thu thập được ý kiến của ông N.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đã thực hiện đầy đủ việc tống đạt các văn bản tố tụng cho các bên đương sự, xác minh, thu thập chứng cứ, xét xử vụ án theo trình tự luật định. Tại phiên tòa, đã có mặt nguyên đơn bà A, bị đơn ông N được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Việc vắng mặt của bị đơn ông N là cố tình nên đề nghị xét xử vắng mặt đương sự theo các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Không kiến nghị khắc phục, bổ sung các thủ tục tố tụng. Quan hệ pháp luật là ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà A.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, nguyên đơn bà A có mặt, bị đơn ông N đã được triệu tập đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng để bị đơn ông N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia giải quyết vụ án. Việc bị đơn ông N vắng mặt tại phiên tòa là cố tình nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông N theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn bà A khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với bị đơn ông N, kết quả xác minh xác định bị đơn ông N có hộ khẩu thường trú và vẫn đang cư trú tại ấp H1, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và quan hệ pháp luật tranh chấp là ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà A:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà A và ông N tự nguyện chung sống với nhau, hôn nhân tự nguyện có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện D ngày 30/7/2020. Hôn nhân giữa bà A và ông N là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận. Bà A xác định quá trình chung sống bà A và ông N đã xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, do ông N sa vào cờ bạc gây phá tán tài sản gia đình, không có trách nhiệm với vợ con, bà A và ông N đã không còn sống chung hơn 01 năm nay, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà A xin được ly hôn với ông N. Tòa án đã tiến hành xác minh tại Ban lãnh đạo ấp H1 xác định: Ông N vẫn còn cư trú tại địa phương nhung không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập của Tòa án, ông N và bà A đã không còn sống chung với nhau từ hơn 01 năm nay, nguyên nhân mâu thuẫn là do ông N vướng vào cờ bạc, vay nợ xã hội đen khiến gia đình phải nhiều lần đứng ra trả nợ nên bà A mới bỏ đi và làm đơn ly hôn với ông N. Bị đơn ông N cố tình vắng mặt dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, cho thấy, ông N đã không quan tâm đến việc hàn gắn tình cảm vợ chồng và mối quan hệ gia đình. Xét tình trạng hôn nhân giữa bà A và ông N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà A được ly hôn với ông N theo quy định tại Điều 19, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3.2] Về con chung: Quá trình chung sống bà A và ông N có một con chung tên Nguyễn Xuân P, sinh ngày 08/4/2021. Bà A yêu cầu nuôi con và không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử thấy rằng yêu cầu của bà A là phù hợp nên chấp nhận, do cháu P hiện còn nhỏ (dưới 36 tháng tuổi) nên giao cho bà A nuôi dưỡng là phù hợp. Bà A không yêu cầu cấp dưỡng là sự tự nguyện của bà A nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà A không tranh chấp về tài sản chung, nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án, các thủ tục tố tụng, quá trình tiến hành tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Nguyên đơn bà A phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 19, 56, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Vũ Tuyết A đối với ông Nguyễn Xuân N về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Vũ Tuyết A được ly hôn với ông Nguyễn Xuân N.

1.2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Giao bà Nguyễn Vũ Tuyết A trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Xuân P, sinh ngày 08/4/2021. Ghi nhận sự tự nguyện của bà A về việc không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Vũ Tuyết A phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0007169 ngày 10 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.

3. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án (ngày 03/8/2022).

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về