Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 27/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 27/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 19/2022/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01-4-2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 19/2022/QĐST-HNGĐ ngày 25-4-2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm: 1988 (có đơn xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: Số 822 đường 21/8, khu phố 2, phường Đô V, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thái K, sinh năm 1986 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Khu phố 6, phường Phước M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30-12-2021 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim C trình bày:

Bà và ông Nguyễn Thái K chung sống với nhau có cưới hỏi và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Phước Mỹ, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm theo Giấy chứng nhận kết hôn số 70 ngày 28-6-2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với ba mẹ chồng tại khu phố 6, phường Phước M, thành phố P. Quá trình chung sống không hạnh phúc do ông K cờ bạc, gây ra nợ nần nên vợ chồng bất hoà. Bà đã khuyên can nhiều lần nhưng ông K vẫn không thay đổi. Đến năm 2015 thì vợ chồng ly thân, mỗi người sống một nhà riêng. Đến tháng 8 năm 2019, vì con cái và cũng cho ông K cơ hội sửa chữa bà đã quay lại chung sống với ông K. Từ năm 2019 đến nay ông K vẫn không thay đổi những thói hư tật xấu cũ, bản thân bà và ba mẹ chồng đã khuyên can, ba mẹ chồng cũng phải bán nhà để trả nợ cho ông K nhưng ông K vẫn tiếp tục cờ bạc.

Bà đã 2 lần nộp đơn ly hôn tại Toà án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm và đều rút đơn để vợ chồng hàn gắn. Nay bà thấy đã hết tình cảm dành cho ông K, muốn được ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thái Quỳnh T, sinh ngày 14-6-2012; Nguyễn Thái Minh A, sinh ngày 22-8-2021. Nếu được ly hôn bà xin nuôi cả 02 con chung và không yêu cầu ông K cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Bị đơn là ông Nguyễn Thái K quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay Tòa án đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông K nhưng ông K vẫn vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự giải quyết vắng mặt bị đơn.

Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng.

[1.1] Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn ông Nguyễn Thái K. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn hiện đang cư trú tại phường Phước M, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm theo khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Xử lý về việc vắng mặt của bị đơn: Từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm mở phiên tòa sơ thẩm Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông K đều vắng mặt. Điều này chứng tỏ ông K đã từ bỏ quyền tham gia tố tụng của mình. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, cùng với tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết và xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Bà Nguyễn Thị Kim C và ông Nguyễn Thái K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn, được Uỷ ban nhân dân phường Phước M, thành phố P theo Giấy chứng nhận kết hôn số 70 ngày 28-6- 2011, đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà C vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

[2.2] Về quan hệ hôn nhân:

Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

Bà C và ông K quá trình chung sống có mâu thuẫn do ông K cờ bạc, gây ra nợ nần. Từ tháng 6/2021 đến nay bà C và ông K không còn chung sống với nhau, mỗi người sống một nhà riêng và cũng không còn liên hệ, gặp gỡ hay hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tình trạng mâu thuẫn của bà C và ông K phù hợp với lời trình bày của cha ruột ông K là ông Nguyễn Văn M và Đơn xin xác nhận tình trạng hôn nhân có xác nhận của Hội Liên hiệp Phụ nữ phường Đô V do nguyên đơn cung cấp.

Bà C cũng đã 02 lần nộp đơn ly hôn và cũng đã được Toà án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm hoà giải để cải thiện tình cảm vợ chồng.

Ông K biết việc bà C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nhưng không tham gia tố tụng thể hiện ông K không có thiện chí và không có nguyện vọng hàn gắn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xét thấy hôn nhân giữa bà C và ông K đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà C.

[2.3] Về con chung: Vợ chồng bà Nguyễn Thị Kim C và ông Nguyễn Thái K có 02 con chung tên Nguyễn Thái Quỳnh T, sinh ngày 14-6-2012; Nguyễn Thái Minh A, sinh ngày 22-8-2021. Bà C có yêu cầu trực tiếp nuôi 02 con, Hội đồng xét xử thấy rằng: Cả 02 cháu từ trước đến nay đều sống với bà C và các cháu còn nhỏ, cháu T có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ. Bà C là nhân viên của Công ty Điện lực Ninh Thuận, có thu nhập ổn định nên có khả năng để nuôi con. Hội đồng xét xử giao 02 cháu Nguyễn Thái Quỳnh T, Nguyễn Thái Minh A cho bà C trực tiếp nuôi dưỡng, ông K không có nghĩa vụ phải cấp dưỡng nuôi con do bà C không có yêu cầu.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Rang - Tháp Chàm tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: Bà C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Nguyễn Thị Kim C được ly hôn với ông Nguyễn Thái K.

2. Về con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị Kim C được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Thái Quỳnh T, sinh ngày 14-6-2012; Nguyễn Thái Minh A, sinh ngày 22-8-2021. Ông Nguyễn Thái K không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do bà Nguyễn Thị Kim C không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số: 00038033 ngày 30-12-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Bà Nguyễn Thị Kim C đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn và bị đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

96
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 27/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:27/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về