Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 26/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 26/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 366/2021/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01-4-2022, Quyết định hoãn phiên toà số 18/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18-4-2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Hữu T, sinh năm: 1975 (có đơn xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: Khu phố 7, phường Bảo A, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1978 (vắng mặt không lý do).

Nơi cư trú: Số 532/23B đường 21/8, khu phố 7, phường Bảo A, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08-10-2021 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Huỳnh Hữu T trình bày:

Ông Huỳnh Hữu T và bà Nguyễn Thị H chung sống với nhau có cưới hỏi và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Phước M năm 1999. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với ba mẹ ông tại khu phố 7, phường Bảo A, thành phố P. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì mâu thuẫn do bà H buôn bán bị đổ nợ nhiều lần (4 lần đổ nợ, mỗi lần khoảng 150 triệu đồng), ông phải lo làm để trả nợ thay cho bà H. Ông đã nhiều lần nói bà H thôi đừng buôn bán nữa để ông sẽ lo chi tiêu gia đình nhưng bà H không chịu, vẫn cứ làm rồi đổ nợ. Do buồn chán nên ông có tâm sự với một người phụ nữ ở chỗ làm việc vào năm 2019. Đến cuối năm 2020, bà H phát hiện ra nên ông đã cắt đứt với người phụ nữ đó, không còn liên hệ, nhắn tin, gọi hay gặp gỡ gì nữa. Bà H đã trách móc và hù doạ lấy các hình ảnh của ông và người phụ nữ đó để đăng lên mạng xã hội nhằm bêu rếu ông và làm cho tinh thần ông hoảng loạn, nghĩ quẩn và xấu hổ nên ông đã uống thuốc rầy tự tử cuối tháng 12/2020. Ông được đưa đi cấp cứu và sống đến nay. Trong thời gian nằm viện từ ngày 31/12/2020, bà H chăm sóc lo lắng cho ông. Đến 21/01/2021, ông xuất viện và quay trở về chung sống với bà H. Ông đã biết lỗi sai của bản thân, đã xin lỗi vợ và đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bà H vẫn cứ mắng chửi, xúc phạm ông, cứ liên tục nhắc lại về lỗi lầm của ông dẫn đến tinh thần của ông rất hoảng loạn và căng thẳng mệt mỏi khi phải sống chung với bà H.

Từ tháng 9-2021 đến nay, ông đã chuyển về nhà ba mẹ ruột sống ở khu phố 7, phường Bảo A, thành phố P. Còn bà H vẫn sống tại nhà vợ chồng ở địa chỉ 532/23B đường 21/8, khu phố 7, phường Bảo A, thành phố P.

Vào đầu tháng 10 năm 2021, bà H có mua xăng về đòi đốt đồ đạc trong nhà, có lấy kéo đòi đâm ông. Ông và bà H đã giằng co, cản lại nên không có sự việc đáng tiếc gì xảy ra. Bà H cũng thường xuyên tới công ty của ông để gặp lãnh đạo công ty trình bày về việc ông có ngoại tình, nhờ công ty can thiệp, theo dõi ông, làm ảnh hưởng đến cuộc sống và công việc của ông rất nhiều. Bản thân ông bị khủng hoảng về tinh thần rất nhiều khi chung sống với bà H.

Quá trình Toà án hoà giải mâu thuẫn, ông cũng đã để một thời gian sắp xếp tình cảm để vợ chồng hàn gắn nhưng không được.

Từ tháng 1/2021 đến nay, cuộc sống vợ chồng ông không hạnh phúc. Ông và bà H có gặp nhau, có trao đổi nhưng mỗi lần nói là mỗi lần cãi vả, trì triết ông. Vợ chồng không thể chia sẽ, cảm thông hay hỗ trợ, yêu thương nhau. Ông không thể nào tiếp tục chung sống với bà H được nữa nên yêu cầu Tòa án cho ly hôn bà H để ổn định cuộc sống.

Về con chung: có 02 con chung tên Huỳnh Hồng N, sinh ngày 10-8-1999 (đã trưởng thành) và Huỳnh Hồng H1, sinh ngày 12-11-2008.

Nếu được ly hôn ông đề nghị bà H nuôi cháu H1 và ông cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đồng. Hiện nay bà H đang nuôi cháu H1. Dù không sống chung nhưng nghĩa vụ của người cha đối với cháu H1 thì ông vẫn thực hiện đầy đủ. Ông biết cháu H1 không muốn cha mẹ ly hôn, nhưng thật sự tình cảm vợ chồng ông không thể tiếp tục được nữa. Nếu cứ tiếp tục chung sống lại chửi bới, xúc phạm nhau và bà H cứ khủng bố, đe doạ tinh thần ông thì ông sợ sự việc xấu đi, ảnh hưởng đến tính mạng của ông và tình cảm vợ chồng cũng đã hết.

Về tài sản chung, nợ chung: ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình vợ chồng chung sống có mâu thuẫn ông T không có đơn đề nghị Uỷ ban nhân dân phường Bảo A và Hội phụ nữ ở phường Bảo A hoà giải mâu thuẫn vợ chồng.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 10-5-2022, ông vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 18-10-2021, bản khai ngày 08-3-2022 và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà và ông T là vợ chồng, chung sống có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Phước M, thành phố P năm 1999. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với gia đình chồng sau đó xây nhà sống riêng tại số 532/23B đường 21/8, thành phố P. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì nhưng đến ngày 19-12-2020, bà phát hiện ông T ngoại tình với người phụ nữ làm chung công ty Bia Sài Gòn. Do bị gia đình ngăn cấm, ông T đã uống thuốc rầy tự tử cuối tháng 12/2020. Thời gian nằm viện từ ngày 31/12/2020, bà trực tiếp chăm sóc lo lắng cho ông T. Đến 21/01/2021, ông xuất viện và quay trở về chung sống với bà.

Từ tháng 9-2021 đến nay, ông T đã chuyển về nhà cha mẹ ruột sống ở khu phố 7, phường Bảo A, thành phố P. Còn bà và con gái út vẫn sống tại nhà vợ chồng ở địa chỉ 532/23B đường 21/8, khu phố 7, phường Bảo A, thành phố P.

Gia đình 2 bên và cả bản thân bà cũng đã khuyên can nhiều lần nhưng ông T vẫn không thay đổi. Bà đã khuyên can, năn nỉ và vẫn còn rất yêu thương chồng. Bà thừa nhận do bực tức vì ông T ngoại tình nên bà đã có những lời lẽ xúc phạm đến ông T. Bà biết lỗi và cũng đã cam kết với gia đình chồng và ông T là không tiếp tục xúc phạm ông T nữa.

Tại các buổi làm việc trước đây, do giận chồng nộp đơn ly hôn nên bà có nói là để lại tài sản cho con thì bà sẽ ly hôn. Tại buổi hoà giải ngày 18-3-2022, bà rất còn thương chồng, thương con, mong muốn được hàn gắn tình cảm vợ chồng. Bà thừa nhận có tới cơ quan ông T tại Công ty bia Sài Gòn gặp lãnh đạo công ty nhờ tác động để hoà giải mâu thuẫn, bà có đưa những hình ảnh trước đây của ông T cho công ty và có nhờ công ty tác động để ông T không tiếp tục qua lại với người cũ nữa. Ông T có nói với bà là ông T không còn quan hệ gì với người cũ nữa, công ty cũng không bắt gặp ông T qua lại với người cũ tại công ty.

Bà thừa nhận đăng những hình ảnh của người cũ của ông T lên Face book với mục đích để người cũ đừng tiếp tục qua lại với ông T nữa.

Bà đề nghị Toà án bác đơn ly hôn của ông T. Bà muốn vợ chồng ly thân một thời gian, nếu vẫn không hàn gắn được thì bà sẽ ly hôn sau. Bà không đồng ý ly hôn vì rất yêu thương chồng và muốn cho ông T cơ hội quay lại. Bà biết ông T chỉ vì sĩ diện với gia đình do bà có những hành động, cư xử không đúng chuẩn mực nên mới ly hôn, chớ trong tâm ông T vẫn yêu thương bà và muốn hàn gắn gia đình.

Nếu Toà án vẫn giải quyết ly hôn thì bà đồng ý nuôi con chung dưới 18 tuổi tên Huỳnh Hồng H1, mỗi tháng ông T cấp dưỡng 2.000.000đồng.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng.

[1.1] Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn ông Huỳnh Hữu T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với bị đơn bà Nguyễn Thị H. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn hiện đang cư trú tại phường Bảo A, thành phố P nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm theo khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Xử lý về việc vắng mặt của bị đơn: Bà Nguyễn Thị H vắng mặt tại phiên toà. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, cùng với tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết và xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Ông Huỳnh Hữu T và bà Nguyễn Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường Phước M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 13 ngày 01-3-1999, đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn; bị đơn bà H khồng đồng ý ly hôn.

[2.2] Về quan hệ hôn nhân:

Ông T thừa nhận vào năm 2019 ông T có ngoại tình với người phụ nữ khác. Sau khi bị bà H phát hiện ông T đã chấm dứt không còn liên hệ, qua lại với người phụ nữ đó từ tháng 12/2020 đến nay. Lý do chính xin ly hôn của ông T là do đã hết tình cảm, vợ chồng không thể hiểu nhau, xúc phạm, chỉ chiết nhau. Việc bà H đăng ảnh lên Facebook, tới công ty để gặp lãnh đạo của ông T đã ảnh hưởng rất lớn đến công việc, cuộc sống, uy tín và tinh thần của ông T.

Bà H thừa nhận từ sau khi phát hiện ông T ngoại tình và chăm sóc ông T khi nằm viện vào tháng 12/2020 đến nay, bà H đã nhiều lần xúc phạm ông T và hay nhắc lại quá khứ việc ông T ngoại tình. Bà H có cung cấp cho Toà án 02 hình ảnh để chứng minh cho lý do xin ly hôn của ông T là ngoại tình, đề nghị Toà án bác yêu cầu ly hôn của ông T. Nhưng 02 hình ảnh này không thể hiện thời gian chụp hay sự trao đổi qua lại (tin nhắn, cuộc gọi, thư từ, …) giữa ông T và người phụ nữ trong ảnh để Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà H.

Từ tháng 9/2021 đến nay ông T và bà H không còn chung sống với nhau, mỗi người sống một nhà riêng, bà H có năn nỉ để hàn gắn tình cảm nhưng ông T không đồng ý.

Tại phiên toà ngày 18-4-2022, bà H có đơn hoãn phiên toà để điều trị bệnh sỏi thận nhưng không cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh tình hình bệnh tật của bà. Tại phiên toà hôm nay, mặc dù đã được Toà án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm tống đạt trực tiếp nhưng bà H vẫn vắng mặt không lý do thể hiện bà H không có thiện chí và không còn nguyện vọng hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Quá trình giải quyết vụ án, Toà án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã cố gắng hoà giải để hàn gắn tình cảm cho ông T bà H nhưng không có kết quả. Theo Biên bản xác minh tại Uỷ ban nhân dân phường Bảo A về mâu thuẫn giữa vợ chồng ông T bà H và quá trình hoà giải, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định là cuộc sống vợ chồng của ông T bà H có mâu thuẫn không hạnh phúc.

Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình thấy rằng hôn nhân giữa ông T và bà H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T.

[2.3] Về con chung: Vợ chồng bà có 02 con chung tên: Huỳnh Hồng N, sinh ngày 10-8-1999 (đã trưởng thành) và Huỳnh Hồng H1, sinh ngày 12-11- 2008. Bà H có yêu cầu trực tiếp nuôi 01 con chung dưới 18 tuổi tên H1 và ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng; ông T cũng đồng ý với yêu cầu của bà H. Hội đồng xét xử thấy rằng: Cháu H1 từ trước đến nay đều sống với bà H và có nguyện vọng được sống với mẹ, lại là con gái nên cần sự chăm sóc của người mẹ. Bà H có nghề nghiệp, có khả năng để nuôi con. Tại phiên hoà giải ngày 18-3-2022, ông T và bà H đã thống nhất được là bà H nuôi cháu H1 và ông T cấp dưỡng mỗi tháng 2.000.000đồng. Đây là sự tự nguyện thoả thuận cả đương sự trước khi đưa vụ án ra xét xử nên Hội đồng xét xử công nhận thoả thuận này, giao 01 cháu Huỳnh Hồng H1 cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, ông Huỳnh Hữu T phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng. Thời gian cấp dưỡng được tính từ khi Bản án này có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi có khả năng lao động tự túc được.

[3] Tài sản chung và nợ chung: Ông T và bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Rang - Tháp Chàm tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: Ông T phải chịu 100% án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật về ly hôn và 50% án phí về cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Điểm a khoản 5, 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông Huỳnh Hữu T được ly hôn với bà Nguyễn Thị H.

2. Về con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung tên Huỳnh Hồng H1, sinh ngày 12-11-2008. Ông Huỳnh Hữu T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng (Hai triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng được tính từ ngày Bản án này có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi có khả năng lao động tự túc được.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự.

4. Về án phí: Ông Huỳnh Hữu T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn và 150.000 đồng (Một trăm năm mươi ngàn đồng) án phí về cấp dưỡng nuôi con, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số: 0003522 ngày 08-10-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Ông Huỳnh Hữu T còn phải nộp 150.000 đồng (Một trăm năm mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 26/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về