Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QL, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện QL xét, tỉnh Nghệ An xử sơ thẩm C khai vụ án thụ lý số 164/2021/TLST-HNGĐ, ngày 06/10/2021, về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 30/3/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1989, có mặt;

- Bị đơn: Anh Vũ Văn L, sinh năm 1978, vắng mặt;

Cùng nơi ĐKHK thường trú: Xóm 1, xã QB, huyện QL, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/10/2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày: Chị và anh Vũ Văn L tự nguyên kết hôn ngày 8/9/2010 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện QL, tỉnh Nghệ An. Quá trình chung sống vợ chồng sau khi kết hôn tình cảm bình thường, đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh L thường xuyên uống rượu say, về nhà gây sự, chửi bới xúc phạm, đánh đuổi chị. Đến năm 2015, vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, anh L không khắc phục được tình trạng trên nên chị về bên ngoại, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không qua lại quan tâm nhau nữa. Nay chị xét thấy không còn tình cảm với anh L nên yêu cầu Tòa án nhân dân huyện QL giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Văn L.

- Về con: Chị và anh Vũ Văn L có 03 chung là Vũ Thị N1, sinh ngày 18/10/2009; Vũ Thị N2, sinh ngày 20/11/2010 và Vũ Thành C, sinh ngày 10/10/2013. Hiện tại các con chung đang ở với anh L. Ly hôn chị nhất trí nhường cả 03 con chung cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng.

- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 14/10/2021, bị đơn anh Vũ Văn L trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị N tự nguyên kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn C ngày 08/9/2010. Vợ chồng chung sống bình thường, không có mâu thuẫn gì, nhưng đến năm 2014 thì chị N tự ý bỏ đi, không nói với anh lời nào. Từ đó đến nay chị N cũng không hỏi thăm, quan tâm chồng con. Nay chị N yêu cầu giải quyết ly hôn thì anh chưa nhất trí vì chị N chưa xóa án tích nên ảnh hưởng đến các con. Vợ chồng có 03 con chung như chị N trình bày, hiện tại các con đều đang ở với anh, khỏe mạnh, phát triển bình thường. Ly hôn anh yêu cầu được nuôi cả 03 con chung và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, các cháu Vũ Thị N1, Vũ Thị N2 và Vũ Thành C đều có nguyện vọng xin được ở với bố là anh Vũ Văn L.

Kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân xã QB: Anh Vũ Văn L và chị Nguyễn Thị N có đăng ký hộ khẩu tại xã QB, huyện QL, tỉnh Nghệ An. Vợ chồng chị N, anh L có 03 con chung. Hiện tại các cháu đang ở với anh L. Chị N, anh L hiện tại đã sống ly thân. Về mâu thuẫn vợ chồng, chính quyền địa phương không được biết vì không qua hòa giải tại xã. Nay chị N yêu cầu giải quyết ly hôn, nuôi con chung thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện QL phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ L cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Thẩm phán thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện theo giấy báo của Tòa án.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân gia đình; các Điều 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/NQ–UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị HĐXX, xử: Cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Vũ Văn L.

- Về con chung: Giao 03 con chung là Vũ Thị N1, sinh ngày 18/10/2009; Vũ Thị N2, sinh ngày 20/11/2010 và Vũ Thành C, sinh ngày 10/10/2013 cho anh Vũ Văn L trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi các con chung cho chị Nguyễn Thị N vì anh Vũ Văn L chưa có yêu cầu. Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

- Tài sản chung: Chị N, anh L không ai yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

 - Về án phí: Nguyên đơn phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và ý kiến Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Bị đơn anh Vũ Văn L đang ký hộ khẩu thường trú và đang cư trú tại Xóm 1, xã QB, huyện QL, tỉnh Nghệ An. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện QL, tỉnh Nghệ An.

- Về việc xét xử vắng mặt: Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có L do. Như vậy, anh L đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của mình nên căn cứ vào các Điều 227 và 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị N và anh L là hợp pháp, vì tuân thủ các thủ tục, điều kiện kết hôn do luật định. Quá trình chung sống vợ chồng do tính tình không hợp nhau nên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị N là do anh L hay uống rượu rồi đánh đuổi, xúc phạm chị; theo anh L là do chị N tự ý bỏ đi. Hai bên sống ly thân nhau đã lâu, không quan tâm gì nhau nữa. Qua phiên hòa giải và phiên họp kiểm tra việc tiếp cận C khai chứng cứ anh L đều vắng mặt không có L do. Mặc dù anh L chưa đồng ý ly hôn nhưng không có biện pháp gì để cải thiện quan hệ vợ chồng. Chị N vẫn quyết tâm xin ly hôn. Xét thấy, hôn nhân giữa chị N và anh L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó cần áp dụng các Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Vũ Văn L.

- Về con: Chị Nguyễn Thị N, anh Vũ Văn L có 03 người con chung. Hiện tại các cháu đều đang sống cùng anh L, khỏe mạnh phát triển bình thường. Ly hôn, chị N và anh L đều thống nhất thỏa thuận giao cả 03 con chung cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, phù hợp với nguyện vọng xin được ở với bố của 03 con chung. Xét thấy sự thỏa thuận của anh L, chị N và nguyện vọng của 03 con chung là chính đáng. Mặt khác, anh L cũng có đủ điều kiện để nuôi dưỡng các con chung. Vì vậy, căn cứ các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình, nên giao cả 03 con chung là Vũ Thị N1, sinh ngày 18/10/2009; Vũ Thị N2, sinh ngày 20/11/2010 và Vũ Thành C, sinh ngày 10/10/2013 cho anh Vũ Văn L tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị N vì anh L chưa có yêu cầu. Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung: Chị N, anh L không ai yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

- Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 28; 35; 39; 147; 227; 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản L và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Vũ Văn L.

2. Về con chung: Giao 03 con chung là Vũ Thị N1, sinh ngày 18/10/2009; Vũ Thị N2, sinh ngày 20/11/2010 và Vũ Thành C, sinh ngày 10/10/2013 cho anh Vũ Văn L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị N vì anh L chưa có yêu cầu. Chị Nguyễn Thị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm; được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) mà chị đã nộp, theo biên lai thu tiền số 0007505, ngày 06/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện QL, tỉnh Nghệ An.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn thời hạn nêu trên, nhưng tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về