Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 19/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 19/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 438/2021/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01-4-2022 giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Ông Đào Thanh T, sinh năm: 1984 (có mặt).

Nơi cư trú: Số 181 đường Võ T, khu phố 1, phường Mỹ B, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

-Bị đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1980 (vắng mặt và có yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Nơi cư trú: Xóm 6, xã Thuỵ V, huyện Thái T, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15-11-2021 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn ông Đào Thanh T trình bày:

Ông T và bà Lê Thị H chung sống với nhau có cưới hỏi và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Mỹ Bình năm 2010. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với ba mẹ ông tại khu phố 1, phường Mỹ B, thành phố P. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì vợ chồng có mâu thuẫn do làm ăn khó khăn, tính tình không hợp, vợ chồng có cãi vã, bất hoà. Đến tháng 6 năm 2021 đến nay, bà H dẫn con chung chuyển về xóm 6, xã Thuỵ V, huyện Thái T, tỉnh Thái Bình sống và đã cắt hộ khẩu chuyển về xã Thuỵ V, huyện Thái T, tỉnh Thái Bình. Từ đó ông và bà H không gặp gỡ, không liên lạc và cũng không có ý định quay trở lại chung sống với nhau. Nay ông thấy đã hết tình cảm dành cho bà H, nên muốn được ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Đào Minh A, sinh ngày 16-5-2011. Nếu được ly hôn ông đề nghị bà H nuôi con chung và ông cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng. Ông hiện nay đang làm nghề buôn bán, còn bà H làm nghề gì thì ông không biết.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

Tại Bản trình bày ý kiến đề ngày 17-02-2022; Đơn trình bày đề ngày 23- 02-2022 bà Lê Thị H trình bày:

Bà H và ông Đào Thanh T là vợ chồng, chung sống có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Mỹ B năm 2010. Vợ chồng sống với nhau 11 năm tại khu phố 1, phường Mỹ B, thành phố P nhưng cuộc sống không hạnh phúc do tính tình không hợp, ông T không đảm bảo cuộc sống cho bà. Quá mệt mỏi với cuộc sống vợ chồng này nên bà đã bỏ về xóm 6, xã Thuỵ V, huyện Thái T, tỉnh Thái Bình sống từ tháng 1 năm 2020 đến nay. Nay ông T ly hôn, bà đồng ý ly hôn vì vợ chồng đã hết tình cảm, không hàn gắn được nữa.

Bà đang sống ngoài Bắc nên không thể có mặt tại các buổi làm việc, hoà giải, … hay xét xử của Toà án được. Bà đồng ý cho Toà án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm thụ lý và giải quyết vụ án ly hôn này của bà và ông T. Bà mong Toà án giải quyết và xét xử vắng mặt bà.

Vợ chồng bà có 01 con chung là cháu Đào Minh A, sinh ngày 16-5-2011. Hiện nay bà đang trực tiếp nuôi cháu. Ly hôn bà xin nuôi cháu A và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng. Bà đang làm công nhân, thu nhập cũng chỉ đủ sống nên cần ông T hỗ trợ cấp dưỡng 1 triệu đồng để nuôi cháu A ăn học.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp pháp luật. Bị đơn cũng đồng ý với yêu cầu này nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng.

[1.1] Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn ông Đào Thanh T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với bị đơn bà Lê Thị H. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn hiện đang cư trú tại xóm 6, xã Thuỵ V, huyện Thái T, tỉnh Thái Bình, nhưng cả nguyên đơn và bị đơn đều lựa chọn và có yêu cầu Toà án nơi nguyên đơn cư trú giải quyết vụ án nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm theo khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Xử lý về việc vắng mặt của bị đơn: Bị đơn bà Lê Thị H có yêu cầu giải quyết và xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, cùng với tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết và xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Ông Đào Thanh T và bà Lê Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường Mỹ B, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 48 ngày 22-9- 2010, đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn có văn bản trình bày: đồng ý với yêu cầu ly hôn của nguyên đơn.

[2.2] Về quan hệ hôn nhân:

Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

Ông T và bà H quá trình chung sống có mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hoà hợp nên cuộc sống không hoà hợp, thường xuyên cải vã. Từ tháng 6 năm 2021 đến nay, bà H đã cắt hộ khẩu và chuyển tới xã Thuỵ V huyện Thái T, tỉnh Thái Bình sống. Ông T và bà H mỗi người sống một nhà riêng và cũng không còn liên hệ, gặp gỡ hay hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này đã được cả ông T và bà H thừa nhận là tình tiết không phải chứng minh quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

Cả ông T và bà H đều đồng ý ly hôn, không có nguyện vọng hàn gắn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xét thấy hôn nhân giữa ông T và bà H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T.

[2.3] Về con chung: Vợ chồng bà có 01 con chung tên Đào Minh A, sinh ngày 16-5-2011. Bà H có yêu cầu trực tiếp nuôi con và ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng; ông T cũng đồng ý với yêu cầu của bà H. Hội đồng xét xử thấy rằng: Cháu A từ trước đến nay đều sống với bà H; cháu A đều có nguyện vọng được sống với mẹ, lại là con gái nên cần sự chăm sóc của người mẹ. Bà H có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, có khả năng để nuôi con và ông T cũng đồng ý với yêu cầu này nên Hội đồng xét xử giao 01 cháu Đào Minh A, sinh ngày 16-5-2011 cho bà Lê Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, ông Đào Thanh T có nghĩa vụ phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng. Thời gian cấp dưỡng được tính từ khi Bản án này có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi có khả năng lao động tự túc được.

[3] Tài sản chung và nợ chung: Ông T và bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Rang - Tháp Chàm tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: Ông Hướng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn và về cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Điểm a khoản 5, 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông Đào Thanh T được ly hôn với bà Lê Thị H.

2. Về con chung: Giao cho bà Lê Thị H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung tên Đào Minh A, sinh ngày 16-5-2011. Ông Đào Thanh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng (Một triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng được tính từ ngày Bản án này có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi có khả năng lao động tự túc được.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự.

4. Về án phí: Ông Đào Thanh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí về cấp dưỡng nuôi con, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số: 0003659 ngày 15-11-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Ông Đào Thanh T còn phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1096
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 19/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về