Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VẠN NINH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 11 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh - tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 166/2021/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2021 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐST - HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Hồng L - sinh năm: 1983;

Hộ khẩu thường trú: Khu phố LHN, phường XP, thị xã SC, tỉnh PY. Chỗ ở hiện nay: 42 Hai Bà Trưng, phường XP, thị xã SC, tỉnh PY. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Hồ Tấn M - sinh năm: 1984;

Trú tại: Thôn TB, xã ĐL, huyện VN, tỉnh KH.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Trong đơn khởi kiện gởi đến Tòa án đề ngày 19/4/2021, Bản tự khai, Biên bản lấy lời khai ngày 01/11/2021 và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phạm Thị Hồng L trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh M tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2010 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã ĐL, huyện VN, tỉnh KH. Giấy chứng nhận kết hôn số 65 cấp ngày 30/9/2010 (bản chính Giấy chứng nhận kết hôn hiện đã bị mất).

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do giữa vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm sống, tính tình vợ chồng không hợp, không tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau. Từ giữa năm 2012 vợ chồng đã mạnh ai nấy sống không còn quan hệ gì với nhau nữa. Chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn và yêu cầu xin được ly hôn.

- Về con chung: Chị L xác định giữa vợ chồng có 01 (một) con chung là: Hồ Phạm Tấn T – sinh ngày 09 tháng 7 năm 2012 Hiện đang do chị L chăm sóc, nuôi dưỡng.

Khi vợ chồng ly hôn chị L yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị Lxác định giữa vợ chồng không có nợ chung.

* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 24/01/2022, bị đơn anh Hồ Tấn M trình bày:

Anh M và chị Phạm Thị Hồng L tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2010 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã ĐL, huyện VN, tỉnh KH. Giấy chứng nhận kết hôn số 65 cấp ngày 30/9/2010 (bản chính hiện đã bị mất).

Sau khi kết hôn vợ chồng vẫn chung sống vui vẻ, hạnh phúc. Tuy nhiên sau khi chị L về nhà cha mẹ ruột tại SC, PY để sinh con thì tình cảm vợ chồng bị phai nhạt do xa cách. Mặc dù vậy anh M xác định vẫn còn yêu thương chị L, anh mong muốn vợ chồng trở lại chung sống đoàn tụ, anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh M xác định giữa vợ chồng có 01 (một) con chung là: Hồ Phạm Tấn T – sinh ngày 09 tháng 7 năm 2012 Hiện đang do chị L chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

Về tài sản chung: Anh M không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về nợ chung: Anh M xác định giữa vợ chồng không có nợ chung.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh phát biểu: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán đã thực hiện đúng nội dung quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định về phiên tòa sơ thẩm; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự và đề nghị Tòa án chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Hồ Tấn M là bị đơn đã được Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Minh.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh M kết hôn tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã ĐL, huyện VN cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 65 ngày 30 tháng 9 năm 2010. Nên quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị Hồng L và anh Hồ Tấn M được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Tại phiên tòa chị Lvẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh Hồ Tấn M. Xét lời khai của chị L thì thấy cuộc sống chung vợ chồng giữa chị L và anh M có nhiều mâu thuẫn và không tìm được phương pháp nào để tiếp tục sống chung với nhau nữa. Vợ chồng không còn tin tưởng, thương yêu, quý trọng nhau. Từ giữa năm 2012 đến nay vợ chồng đã mạnh ai nấy sống, không ai quan tâm chăm sóc ai. Như vậy mâu thuẫn giữa chị L và anh M đã đến hồi trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặc dù Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh M đến tòa để tham gia phiên hòa giải, tham gia tố tụng tại phiên tòa nhằm giải quyết việc ly hôn giữa hai người nhưng anh M đều không có mặt. Điều đó chứng tỏ anh M không còn quan tâm gì đến cuộc hôn nhân này nữa nên việc chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh M là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận yêu cầu này của chị L. Việc anh M yêu cầu được đoàn tụ, không đồng ý ly hôn không được chị L đồng ý nên không chấp nhận yêu cầu đoàn tụ của anh M.

[3] Về việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L và anh M đều xác định giữa vợ chồng có 01 (một) con chung là:

Hồ Phạm Tấn T – sinh ngày 09 tháng 7 năm 2012 Hiện đang do chị L chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị L yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

Xét: Hiện nay con chung Hồ Phạm Tấn T – sinh ngày 09 tháng 7 năm 2012 đang do chị L chăm sóc, nuôi dưỡng. Cháu T còn nhỏ nên cần được mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng. Xét yêu cầu của chị L về việc được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung thì thấy nên giao cho chị L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là có căn cứ và đúng luật.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L không yêu cầu nên Tòa không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Chị L và anh M đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa không xét.

[5] Về nợ chung: Chị L và anh M đều xác định vợ chồng không nợ của ai, không ai nợ của vợ chồng nên Tòa không xét.

[6] Về án phí: Chị L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Điều 28, 35, 147, điểm b khoản 2 Điều 227, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

- Chị Phạm Thị Hồng L được ly hôn với anh Hồ Tấn M.

- Về việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cho chị Phạm Thị Hồng L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Hồ Phạm Tấn T – sinh ngày 09 tháng 7 năm 2012 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và chị L không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Anh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Trong quá trình nuôi dưỡng con chung, nếu xét thấy cần thiết chị L, anh M có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con chung cũng như việc cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Chị Phạm Thị Hồng L và anh Hồ Tấn M đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Chị Phạm Thị Hồng L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0003077 ngày 17 tháng 5 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện VN. Chị L đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo của nguyên đơn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, quyền kháng cáo của bị đơn là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vạn Ninh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về