Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 124/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ M, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 124/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 258/2022/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 178/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 179/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Xuân Trúc M, sinh năm 1995; địa chỉ: số 846, ấp Nhơn A, xã Nhơn M, huyện Chợ M, tỉnh A; có mặt.

Bị đơn: Ah Nguyễn Thành P, sinh năm 1994; địa chỉ: ấp Nhơn A, xã Nhơn M, huyện Chợ M, tỉnh A; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Phạm Xuân Trúc M trình bày, sau thời gian tự tìm hiểu chị và anh P được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2013 vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nhơn M, huyện Chợ M, tỉnh A. Vợ chồng sống chung đôi lúc cũng hay cãi vã, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn sống không tình cảm, bất đồng quan điểm, anh P không lo làm ăn, mỗi khi anh P đi uống rượu về là kiếm chuyện đánh chị, chị có khuyên nhưng không sửa đổi, vợ chồng không còn sống chung từ cuối năm 2020 cho đến nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn, chị yêu cầu ly hôn với anh P. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 02 con chung tên Nguyễn Thành T, sinh ngày 17/8/2017; Nguyễn Thành A, sinh ngày 25/8/2014 hiện nay cháu A sống chung với anh P, cháu T sống chung với chị M, khi ly hôn chị M đồng ý để anh P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu A, chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu T, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị M xác định vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện: Giấy chứng minh nhân dân, hộ khẩu gia đình, giấy chứng nhận kết hôn số 255 ngày 03.9.2013 do Ủy ban nhân dân xã Nhơn M, huyện Chợ M, tỉnh A cấp; Giấy khai sinh của Nguyễn Thành T, Nguyễn Thành A (bản sao).

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Ngoài các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án, chị M không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm.

- Bị đơn vắng mặt không có ý kiến.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Ý kiến giải quyết vụ án:

- Về hôn nhân: Chị Phạm Xuân Trúc M và anh Nguyễn Thành P, quen biết và được cha mẹ đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 2013, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nhơn M, ngày 03/9/2013, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2020 thì ly thân, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống và anh P có hành vi bạo lực gia đình nên vợ chồng đã ly thân. Nay nhận thấy tình cảm không còn nên yêu cầu ly hôn.

Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ việc bất đồng quan điểm trong cuộc sống, dẫn đến vợ chồng thường cự cải, không hạnh phúc. Mặt khác, anh P có hành vi bạo lực gia đình, vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng và chị M xác định không còn tình cảm với anh P, nếu buộc tiếp tục chung sống sẽ không hạnh phúc nên chị M yêu cầu ly hôn với anh P là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thành T sinh ngày 17/8/2017, Nguyễn Thành A sinh ngày 25/8/2014, hiện cháu A đang sống với anh P, cháu T đang sống với chị M, khi ly hôn đồng ý để anh P tiếp tục nuôi cháu A, yêu cầu nuôi cháu T, không ai cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy, việc giao con chưa thành niên cho vợ hay chồng chăm sóc, nuôi dưỡng, cần xem xét đến điều kiện phát triển và nguyện vọng của con chung. Từ khi ly thân đến nay, cháu T sống với chị M vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, cháu A có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với anh P. Để đảm bảo ổn định cuộc sống cho các cháu nghĩ nên tiếp tục giao cháu A cho anh P, giao cháu T cho chị M chăm sóc, nuôi dưỡng. Do chị M, anh P không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập đến.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không đề cập giải quyết.

Từ những phân tích nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị:

- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phạm Xuân Trúc M đối với anh Nguyễn Thành P.

- Chị Phạm Xuân Trúc M được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thành T sinh ngày 17/8/2017; anh Nguyễn Thành P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thành A sinh ngày 25/8/2014. Chị M và anh P không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[1] Về tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Chị Phạm Xuân Trúc M khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Thành P cư trú ấp Nhơn A, xã Nhơn M, huyện Chợ M. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ M theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ah Nguyễn Thành P đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh P theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

 [2.1] Về hôn nhân:

Chị Phạm Xuân Trúc M và anh Nguyễn Thành P tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa chị M và anh P là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Chị P xác định, vợ chồng mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã từ khoảng 02 năm cho đến nay do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, anh P không quan tâm đến vợ con, mỗi khi anh P đi uống rượu về thì kiếm chuyện đánh chị, anh chị không còn sống chung từ cuối năm 2020 cho đến nay.

Xét thấy, xuất phát từ mâu thuẫn trong thời gian chung sống, chị M, anh P thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm và không còn sống chung khoảng 02 năm. Vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, không tình cảm. Cho nên, có căn cứ xác định mâu thuẫn giữa chị M và anh P là trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị M đối với anh P theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Chị Phạm Xuân Trúc M xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 02 con chung tên Nguyễn Thành T, sinh ngày 17/8/2017; Nguyễn Thành A, sinh ngày 25/8/2014 hiện nay cháu A sống chung với anh P, cháu T sống chung với chị M, khi ly hôn chị M đồng ý để anh P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu A, chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu T Xét thấy, việc giao con chưa thành niên cho vợ hay chồng chăm sóc, nuôi dưỡng, cần xem xét đến điều kiện phát triển và nguyện vọng của con chung. Từ khi ly thân đến nay, cháu A sống với anh P, cháu T sống chung với chị M, các cháu vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Mặt khác, tại biên bản ghi nhận ý kiến cháu A thì cháu có nguyện vọng sống chung với anh P và tại phiên Tòa thì chị M cũng đồng ý để anh P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu A. Để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu A, cháu T Hội đồng xét xử nghĩ nên tiếp tục giao cháu A cho anh P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giao cháu T cho chị M được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, do chị M không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Ah P cũng không có ý kiến về cấp dưỡng nuôi con đối với cháu A nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị M xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị M phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ah P không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Xuân Trúc M.

1. Về hôn nhân: Chị Phạm Xuân Trúc M được ly hôn với anh Nguyễn Thành P.

Giấy chứng nhận kết hôn số 255 ngày 03/9/2013 do Ủy ban nhân dân xã Nhơn M, huyện Chợ M, tỉnh A cấp cho chị Phạm Xuân Trúc M và anh Nguyễn Thành P không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

Chị Phạm Xuân Trúc M được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thành T, sinh ngày 17/8/2017. Ah Nguyễn Thành P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ah Nguyễn Thành P được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thành A, sinh ngày 25/8/2014. Chị Phạm Xuân Trúc M không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Chị Phạm Xuân Trúc M và anh Nguyễn Thành P cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh, chị trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về tài sản chung: Chị Phạm Xuân Trúc M xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Phạm Xuân Trúc M xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ghi nhận chị M xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của chị M, anh P trong thời kỳ hôn nhân thì anh, chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

5. Về án phí sơ thẩm:

Chị Phạm Xuân Trúc M phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010303 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ M, tỉnh A cấp ngày 02 tháng 3 năm 2022; Chị Phạm Xuân Trúc đã nộp đủ án phí.

Ah Nguyễn Thành P không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

6. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Phạm Xuân Trúc M có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh A xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của anh Nguyễn Thành P được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 124/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:124/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về