Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 69/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 69/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 27 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 324/2021/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2021 về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2021/QĐXX-ST ngày 17 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T1 - SN 1990 “Có mặt” Địa chỉ: Phố 7, phường Quảng P, Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H - SN 1986 “ Có mặt”; Địa chỉ : Phố 7, phường Quảng P, Thành phố T , tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T1 trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn H kết hôn với nhau vào năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quảng P, huyện Quảng X (nay là phường Quảng P, Thành phố T), tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Mâu thuẫn của anh chị đã được gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ cuối tháng 5 năm 2021 đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với anh H.

Về con: Anh chị có 02 con chung: Cháu Nguyễn L, sinh ngày 04/5/2011 và cháu Nguyễn Thị Hồng N, sinh ngày 29/9/2013. Tại đơn khởi kiện chị T1 đề nghị được nuôi cả hai cháu và đề nghị anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 3.000.000đ/tháng, hai cháu 6.000.000 đ/tháng. Quá trình giải quyết vụ án chị thay đổi quan điểm xin được nuôi cháu Nguyễn Thị Hồng N và giao cháu Nguyễn L cho anh H nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ: Chị T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Tại bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Văn H trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn anh đồng ý như chị T1 đã trình bày. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 4/2021 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Tuy nhiên đây chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhặt hàng ngày chưa đến mức phải ly hôn. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn nên anh chị đã sống ly thân với nhau từ tháng 5/2021 đến nay. Nay chị T1 làm đơn khởi kiện xin ly hôn với anh. Anh xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên không đồng ý ly hôn để vợ chồng cùng nuôi dạy con cái. Trường hợp chị T1 cương quyết ly hôn đề nghị Tòa căn cứ theo quy định của pháp luật để giải quyết Về con: Anh chị có hai con chung như chị T1 trình bày là đúng. Ly hôn anh đề nghị được trực tiếp nuôi cả hai cháu L và Hồng N và không yêu cầu chị T1 cấp dưỡng nuôi con Về tài sản, công nợ: Anh H không đề nghị Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa hôm nay:

Chị T1 giữ nguyên quan điểm như đã trình bày và không có ý kiến bổ sung gì khác.

Anh H giữ nguyên quan điểm về hôn nhân và tài sản, công nợ; thay đổi quan điểm về phần con: Anh đề nghị giao cháu L cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Hồng N cho chị T1 trực tiếp nuôi dưỡng và không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và việc chấp hành của nguyên đơn, bi đơn kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, bị đơn cư trú tại Thành phố T. Do vậy Tòa án Thành phố T thụ lý, giải quyết là đúng quy định theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T1 và anh Nguyễn Văn H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện,có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay chị T1, anh H khai vợ chồng chung sống có xảy ra mâu thuẫn và đã ly thân nhau . Chị T1 cho rằng mâu thuẫn của vợ chồng đã trầm trọng và kéo dài trong nhiều năm nay. Quan điểm của anh H cho rằng mâu thuẫn của vợ chồng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống thường ngày và chưa đến mức phải ly hôn.

Kết quả thu thập chứng cứ tại địa phương thể hiện: quá trình anh chị chung sống đã có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống. Địa phương đã tiến hành hòa giải nhưng không có kết quả. Hiện nay chị T1 đã chuyển về nhà ngoại ở.

Mặc dù anh H không đồng ý ly hôn nhưng cũng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại phiên tòa hôm nay chị T1 vẫn cương quyết xin được ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống chung của vợ chồng cũng không cải thiện được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị T1 được ly hôn với anh H là phù hợp.

[3] Về con: Anh chị có 02 con chung. Cả hai đều thống nhất giao cháu Nguyễn L cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Thị Hồng N cho chị T1 trực tiếp nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét việc thỏa thuận của anh chị là tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[4] Về tài sản, công nợ: Các đương sự không yêu cầu giải quyết.

[5] Về án phí:Chị T1 phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luât tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/QH14.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T1 được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

Về con: Công nhận cháu Nguyễn L, sinh ngày 04/5/2011 và cháu Nguyễn Thị Hồng N, sinh ngày 29/9/2013 là con chung của chị T1 và anh H. Giao cháu Nguyễn L cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Thị Hồng N cho chị T1 trực tiếp nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị T1, anh H có quyền đi lại thăm nom con chung, không được ai cản trở.

Về tài sản, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa giải quyết.

Án phí: Chị Nguyễn Thị T1 phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị đã nộp theo biên lai số AA/2019/0012612 ngày 25/6/2021 tại chi cục Thi hành án dân sự Thành phố T (Chị T1 đã nộp đủ án phí).

Chị T1, anh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 69/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:69/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về