Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 55/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 55/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 140/2022/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 61/2022/QĐST - HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L - Sinh năm 1994.

Địa chỉ: Số nhà 19, đường Lê Hồng P, tổ dân phố số 1, TT L, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai - có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Duy Q - Sinh năm 1986.

Địa chỉ: Số nhà 19, đường Lê Hồng P, tổ dân phố số 1, TT L, huyện Bảo Thắng, Lào Cai - (vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12/7/2022 và bản tự khai ngày 22/7/2022 cũng như tại phiên tòa, chị Phạm Thị L trình bầy: Chị và anh Nguyễn Duy Q tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 4 năm 2017 không đăng ký kết hôn đến ngày 08/12/2018 vợ chồng chị mới đến UBND thị trấn L, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai đăng ký kết hôn. Sau kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì xẩy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm trong cuộc sống, gia đình không có tiếng nói chung dẫn đến cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên khuyên bảo nhiều lần nhưng không khắc phục được, hiện nay vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Duy Q.

Về con chung: Quá trình chung sống chị và anh Q có một con chung là cháu Nguyễn Khánh N, sinh ngày 20/01/2018, hiện nay cháu khỏe mạnh phát triển bình thường và đang ở cùng chị, khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, chị không yêu cầu anh Q cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị và anh Q không có tài sản chung, không vay nợ ai, khi ly hôn chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với anh Nguyễn Duy Q (Bị đơn) trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt được các văn bản tố tụng cho anh Q nhưng anh Q đều vắng mặt và cũng không có văn bản trả lời ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện.

Đối với vụ án này Toà án mở phiên họp công khai chứng cứ; không hòa giải được về quan hệ hôn nhân và nuôi dưỡng chăm sóc con chung, vì vắng mặt bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Phạm Thị L khởi kiện xin ly hôn với anh Nguyễn Duy Q đảm bảo điều kiện theo quy định của pháp luật, chị L và anh Q đều đăng ký hộ khẩu tại tổ dân phố số 1, thị trấn L, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Vì vậy đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị L và anh Nguyễn Duy Q có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm trong cuộc sống, gia đình không có tiếng nói chung dẫn đến cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Khi mâu thuẫn xẩy ra đã được gia đình hai bên khuyên bảo nhiều lần nhưng không khắc phục được, hiện nay vợ chồng đã sống ly thân. Mâu thuẫn của vợ chồng anh chị đã được chính quyền địa phương xác nhận. Tại phiên toà hôm nay, chị Phạm Thị L giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với anh Nguyễn Duy Q.

Đối với anh Nguyễn Duy Q vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Q nhưng anh Q đều vắng mặt và cũng không có văn bản trả lời ý kiến đối với yêu cầu của người khởi kiện, vì vậy cần xem xét giải quyết vắng mặt anh Q là phù hợp với quy định của pháp luật.

Xét thấy, việc chị Phạm Thị L xin ly hôn với anh Nguyễn Duy Q là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Phạm Thị L và anh Nguyễn Duy Q có một con chung là cháu Nguyễn Khánh N, sinh ngày 20/01/2018. Tại phiên tòa hôm nay chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, chị không yêu cầu anh Q cấp dưỡng tiền nuôi con; hiện nay chị làm tự do thu nhập bình quân 5.000.000đồng/tháng được UBND thị trấn L xác nhận; Đối với anh Nguyễn Duy Q vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình giải quyết vụ án tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Q nhưng anh đều không có văn bản trả lời. Vì vậy xét yêu cầu xin được nuôi dưỡng con chung của chị L là có căn cứ nên Hội đồng xét xử cần giao cháu Nguyễn Khánh N cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với pháp luật, chị L không yêu cầu anh Q cấp dưỡng tiền vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Phạm Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về công nợ: Chị L xác nhận quá trình chung sống chị và anh Q không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ gì, khi ly hôn chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị L ly hôn anh Nguyễn Duy Q.

2. Về con chung: Xử giao cháu Nguyễn Khánh N, sinh ngày 20/01/2018 cho chị Phạm Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, cho đến khi cháu N trưởng thành đủ 18 tuổi, anh Q không phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Duy Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị L phải chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0003002 ngày 22/7/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Thắng; Chị L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

84
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 55/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:55/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về