Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 50/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BN TRE

BẢN ÁN 50/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Bến Tre mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 146/2022/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2022 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 123/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1984;

Địa chỉ: số D ấp B, xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1981;

Địa chỉ: số A ấp B, xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre (Bà H có mặt; Ông H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: bà và ông Nguyễn Văn H kết hôn, đăng ký kết hôn vào năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Hôn nhân do tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại nhà bà, địa chỉ số D ấp B, xã N, thành phố Bến Tre; sau đó do cha chồng mất, mẹ chồng kêu vợ chồng về sống tại số A ấp B, xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Cách đây 07 năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, ông H hay nhậu nhẹt, bạo lực gia đình, bà đã khuyên ông H nhiều lần nhưng ông H không sửa đổi. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2018 đến nay. Vào tháng 10/2021, bà có nộp đơn khởi kiện ly hôn với ông H, sau đó bà rút đơn kiện nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thành. Nay, bà xác định không còn tình cảm với ông H nên yêu cầu ly hôn với ông H.

Về con chung: bà và ông H có với nhau 02 con chung tên h Nguyễn Trần Như H, sinh ngày 24/11/2008 và Nguyễn Trần Như A, sinh ngày 11/4/2015. Hiện nay, 02 con chung đang sống chung với ông H và mẹ chồng. Sau khi ly hôn, bà đồng ý để 02 con chung cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng. Về mức cấp dưỡng nuôi con các bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Theo biên bản lấy lời khai ngày 08/6/2022, bị đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:

Ông thống nhất lời trình bày của bà H về thời điểm, địa điểm đăng ký kết hôn, diễn biến quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung. Sau khi cưới nhau, ông làm nghề tự do, thu nhập trung bình từ 7 đến 10 triệu đồng/tháng còn bà H thì đi làm tóc tại xã S, thành phố B. Quá trình chung sống, vợ chồng có cãi nhau tuy nhiên mâu thuẫn không trầm trọng như bà H trình bày. Do con còn nhỏ, ông còn thương vợ nên ông không đồng ý ly hôn với bà H.

Về con chung: hiện nay 02 con chung đang sống chung với ông, trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H thì ông yêu cầu trực tiếp nuôi 02 con, ông không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Bà Trần Thị H trình bày: vào tháng 10/2021, bà đã nộp đơn kiện yêu cầu ly hôn với ông H, do thấy con còn nhỏ nên bà đã cho ông H cơ hội nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thành. Bà và ông H đã sống ly thân chứ không còn sống chung nhu ông H trình bày. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông H nên bà yêu cầu ly hôn với ông H. Về con chung, bà yêu cầu để 02 con chung cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng, về mức cấp dưỡng nuôi con các bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết, về tài sản chung và nợ chung không có. Ngoài ra, bà không còn yêu cầu nào khác.

Ông Nguyễn Văn H vắng mặt.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thu ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H đối với bị đơn ông H, cụ thể:

- Về quan hệ hôn nhân: bà H được ly hôn với ông H.

- Về con chung: sau khi ly hôn, ông H là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung; về mức cấp dưỡng nuôi con các bên tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

- Về tài sản chung: các bên khai không có nên không xem xét.

- Về nợ chung: các bên khai không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào lời trình bày của đương sự và phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: bà Trần Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Nguyễn Văn H, đồng thời yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung, ngoài ra bà H không có yêu cầu nào khác. Căn cứ đơn khởi kiện cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án "ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo quy định tại Điều 51 và Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: bà H khởi kiện yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con với ông H, đây là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 3 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án không có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài, vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Bị đơn ông H có nơi cư trú tại xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre có thẩm quyền giải quyền giải quyết vụ án.

[3] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: ông H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt. Việc ông H vắng mặt tại phiên tòa được xem là từ bỏ quyền trình bày, đưa ra chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông H là phù hợp.

[4] Về quan hệ hôn nhân: vào năm 2008, bà H và ông H tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Việc đăng ký kết hôn giữa bà H và ông H là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc, đã tuân thủ đúng theo quy định tại Điều 9 và Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét thấy: tại đơn khởi kiện và biên bản lấy lời khai ngày 24/5/2022 (BL28, 29) bà H trình bày hiện nay vợ chồng không còn không còn quan tâm, thương yêu, chăm sóc lẫn nhau. Vào tháng 10/2021, bà H đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn ông H, sau đó bà H có đơn rút lại yêu cầu khởi kiện (BL18). Bên cạnh đó, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập ông H đến để hòa giải nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng giữa ông và bà H, tại biên bản lấy lời khai ngày 08/6/2022 ông H trình bày không đồng ý ly hôn bà H tuy nhiên đến nay ông H không đưa ra được giải pháp nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng giữa ông và bà H. Tại phiên tòa, bà H trình bày bà và ông H đã ly thân, hiện nay bà đang sinh sống tại số D ấp B, xã N, thành phố Bến Tre còn ông H sinh sống số A ấp B, xã N, thành phố Bến Tre. Từ các chứng cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà H và ông H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 là phù hợp.

[5] Về con chung: bà H khai bà và ông H có với nhau 02 con chung tên Nguyễn Trần Như H, sinh ngày 24/11/2008 và Nguyễn Trần Như A, sinh ngày 11/4/2015. Tại biên bản lấy lời khai, ông H trình bày hiện nay 02 con chung đang do ông trực tiếp nuôi dưỡng, trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H thì ông yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con. Tại phiên tòa, bà H cũng đồng ý giao 02 con chung cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Hội đồng xét xử xét thấy để con chung phát triển ổn định, toàn diện cần giao 02 con chung cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Về mức cấp dưỡng nuôi con, các bên tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: bà H và ông H cùng khai không có nên không xem xét.

[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Về án phí: căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 26/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn…”. Như vậy, bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị H về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" đối với bị đơn ông Nguyễn Văn H, cụ thể như sau:

1.1. Về quan hệ hôn nhân: bà Trần Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Văn H.

1.2. Về con chung:

Giao 02 (hai) con chung tên Nguyễn Trần Như H, sinh ngày 24/11/2008 và Nguyễn Trần Như A, sinh ngày 11/4/2015 cho ông Nguyễn Văn H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về mức cấp dưỡng nuôi con: bà Trần Thị H và ông Nguyễn Văn H tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Sau khi ly hôn, bà Trần Thị H có quyền thăm, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, không ai có quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

1.3. Về tài sản chung: bà Trần Thị H và ông Nguyễn Văn H khai không có nên không xem xét.

1.4. Về nợ chung: bà Trần Thị H và ông Nguyễn Văn H khai không có nên không xem xét.

2. Án phí: bà Trần Thị H phải chịu số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số XYZ ngày 26 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bến Tre (đã nộp xong).

3. Bà Trần Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Ông Nguyễn Văn H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

4. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 50/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:50/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về