Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 07/2021/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU 

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-PT NGÀY 23/03/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2021/TLPT-HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Do Bản án sơ thẩm số 02/2021/HNGĐ-ST ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố O, tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 02/2021/QĐ-PT ngày 02 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị A (tên gọi khác A1), sinh năm 2001, (có mặt) Địa chỉ: Số 4/139, ấp M, xã N, thành phố O, tỉnh Bạc Liêu.

2. Bị đơn: Anh B, sinh năm 1995, (có mặt) Địa chỉ: Số 1/407, ấp P, xã N, thành phố O, tỉnh Bạc Liêu.

3. Người kháng cáo: Anh B, là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 15/10/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị A (A1) trình bày: Chị và anh B tự nguyện kết hôn năm 2019, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, thành phố O, tỉnh Bạc Liêu được cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 25/11/2019. Chị và anh B có 01 con chung, cháu tên C, sinh ngày 12/9/2018, hiện đang sống cùng với anh B. Nguyên nhân mâu thuẫn, do chị và anh B bất đồng quan điểm sống, anh B nhậu và đánh đuổi chị và chị về nhà cha mẹ ruột sống ly thân từ tháng 3 năm 2020. Chị A yêu cầu được ly hôn với anh B, yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh B cấp dưỡng; chị và anh B không có tài sản chung và không có nợ chung.

Đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn anh B xác định: Anh thống nhất với trình bày của Chị A về quan hệ hôn nhân, con chung và tài sản chung, nợ chung. Anh đồng ý ly hôn với chị A; về con chung, anh không đồng ý giao cháu C, sinh ngày 12/9/2018, cho chị A trực tiếp nuôi, do cháu đang sống ổn định cùng anh, cháu phát triển bình thường. Chị A không đảm bảo điều kiện để chăm sóc con, vì cháu không mến chị. Anh yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu Chị A cấp dưỡng; tài sản chung, nợ chung không có không yêu cầu giải quyết.

Từ nội dung trên, tại Bản án sơ thẩm số 02/2021/HNGĐ-ST ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố O, tỉnh Bạc Liêu đã quyết định: Căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 55, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị A (A1) và anh B.

2. Về con chung: Giao 01 người con chung là C, sinh ngày 12/9/2018, cho chị A chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Buộc anh B giao cháu C, sinh ngày 12/9/2018, cho chị A chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh B được quyền đến thăm nom con chung, mà không ai có quyền ngăn cản.

Về cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Tài sản chung, nợ chung không có không yêu cầu giải quyết.

3. Về án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị A phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chị A đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0007211 ngày 27/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố O được chuyển thu án phí.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/01/2021, bị đơn anh B kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử lại giao con cho anh nuôi, không yêu cầu chị A phải cấp dưỡng.

Tại phiên tòa phúc thẩm anh B giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Ý kiến trình bày của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu: Về thủ tục tố tụng, từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa, các Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh B và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, nghe ý kiến đề xuất của Viện kiểm sát, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Hôn nhân giữa Chị A và anh B là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Chị A xin ly hôn, anh B đồng ý ly hôn, cấp sơ thẩm xử về quan hệ hôn nhân công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị A và anh B là có căn cứ.

[2] Chị A và anh B có 01 con chung là cháu C, sinh ngày 12/9/2018, hiện cháu đang sống cùng anh B. Anh B kháng cáo yêu cầu được trực tiếp nuôi con, cho rằng không đồng ý giao con cho chị A trực tiếp nuôi, vì cháu đang sống ổn định cùng anh, cháu phát triển rất tốt, không muốn làm xáo trộn cuộc sống của con.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy, chị A và anh B hiện đều có việc làm, thu nhập ổn định đủ điều kiện, đảm bảo trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, do cháu C, sinh ngày 12/9/2018 tính đến ngày xét xử phúc thẩm chưa đủ 36 tháng tuổi. Theo quy định tại khoản 1 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình quy định, về nghĩa vụ và quyền chăm sóc con:“Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên…’’. Tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Cháu C, sinh ngày 12/9/2018, hiện đang trực tiếp sống với anh B. Chị A có nguyện vọng nuôi con, khi bỏ về nhà cha mẹ ruột sống ly thân đã có nguyện vọng mang con theo. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xử giao cháu C, sinh ngày 12/9/2018, cho chị A chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và buộc anh B giao con cho chị A trực tiếp nuôi con là có căn cứ, cấp phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin trực tiếp nuôi con của anh B, mà cần chấp nhận như đề nghị của Viện kiểm sát giữ nguyên án sơ thẩm là phù hợp.

Tuy nhiên, sau này, nếu khi cháu C đủ 36 tháng tuổi và căn cứ cho rằng chị A trực tiếp nuôi con là không đảm bảo, thì anh B có quyền yêu cầu xin thay đổi nuôi con bằng vụ án khác theo đúng quy định của pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm tuyên buộc anh B giao con cho chị A trực tiếp nuôi con là bản án phải áp dụng Luật Thi hành án dân sự trong giai đoạn thi hành án, nhưng cấp sơ thẩm không tuyên phần này là thiếu sót, cấp phúc thẩm bổ sung để đảm bảo thi hành án.

[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[5] Án phí dân sự phúc thẩm về hôn nhân và gia đình anh B phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh B và giữ nguyên Bản án sơ thẩm số thẩm số 02/2021/HNGĐ-ST ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố O, tỉnh Bạc Liêu.

Căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 55, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị A (A1) và anh B.

2. Về con chung: Giao 01 người con chung là C, sinh ngày 12/9/2018, cho chị A (A1) chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Buộc anh B giao cháu C, sinh ngày 12/9/2018, cho chị A (A1) chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh B được quyền đến thăm nom con chung, mà không ai có quyền ngăn cản.

Về cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Tài sản chung, nợ chung không có không yêu cầu giải quyết.

3. Về án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị A (A1) phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chị A (A1) đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0007211 ngày 27/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố O được chuyển thu án phí.

4. Án phí dân sự phúc thẩm về hôn nhân gia đình anh B phải nộp 300.000 đồng, anh B đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu số 0011813 ngày 28/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố O được chuyển thu án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 07/2021/HNGĐ-PT

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về