Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 03/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOA LƯ, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 03/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoa Lư xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 113/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2021 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2022 và Thông báo về việc thay đổi lịch phiên tòa số 51/TB-TA ngày 07 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Mai X, sinh năm: 1983. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hồng K. Sinh năm: 1978. Vắng mặt. Đều trú tại: thôn T, xã Tr, huyện H, tỉnh Ninh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/11/2021, trong quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, nguyên đơn - chị Nguyễn Mai X trình bày: Chị và anh Nguyễn Hồng K đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Trường Yên vào ngày 02 tháng 3 năm 2001. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại thôn T, xã Tr, huyện H. Từ khi kết hôn đến nay, anh K chơi bời, nghiện ma túy, đã nhiễm HIV nên sức khỏe yếu, không giúp được gì cho vợ con, mình chị phải lo toan, gánh vác kinh tế gia đình. Tuy nhiên, từ năm 2018 đến nay, anh K luôn chửi bới chị vì cho rằng chị ngoại tình dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau. Chị đã cố gắng nhẫn nhịn vì các con nhưng đến nay chị không thể chịu đựng được nữa.

Đề nghị tòa án cho chị được ly hôn anh K.

Chị và anh K có 02 con chung là cháu Nguyễn Ngọc C, sinh ngày 29/10/2004 và cháu Nguyễn Đức D, sinh ngày 23/7/2007. Hiện tại, chị đang là công nhân có thu nhập hàng tháng là 6.000.000 đồng. Ngoài ra, chị cũng làm ruộng để tăng thêm thu nhập, vợ chồng cũng có cho thuê quán bán hàng phục vụ mùa du lịch đầu năm. Khi ly hôn, các con muốn ở với bố hay mẹ thì chị cũng tôn trọng ý kiến của các con. Nếu cả 02 cháu muốn ở với chị, chị cũng đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng 02 cháu, không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị không yêu cầu tòa án giải quyết về tài sản chung, công nợ chung của vợ chồng.

Ý kiến của bị đơn - anh Nguyễn Hồng K: Tại bản tự khai đề ngày 10/3/2022, anh K xác định thời điểm kết hôn và con chung giữa anh và chị X như chị X đã trình bày. Chị X muốn ly hôn với anh, anh không có ý kiến gì. Khi ly hôn, các con chung muốn ở với ai là tùy các cháu, người không trực tiếp nuôi con thì không phải cấp dưỡng. Anh không đề nghị tòa án giải quyết về tài sản, công nợ chung của vợ chồng. Đề nghị tòa án không hòa giải và tiến hành xét xử vắng mặt anh.

Ý kiến của con chung: Tòa án đã lấy lời khai của cháu Nguyễn Ngọc C và cháu Nguyễn Đức D là con của anh K, chị X. Cháu C, cháu D đều muốn được ở với mẹ trong trường hợp bố mẹ ly hôn.

Tại các biên bản xác minh của tòa án, chính quyền địa phương xã Tr cho biết: Sau khi kết hôn, vợ chồng anh K, chị X sống ở thôn T, xã Tr. Vợ chồng anh K, chị X có mâu thuẫn như thế nào thì chính quyền địa phương không nắm rõ. Anh K nghiện ma túy từ lâu đã bị nhiễm HIV, sức khỏe yếu, không có công ăn việc làm. Chị X làm công nhân, kinh tế gia đình phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập của chị X. Vợ chồng anh K, chị X có cho thuê quán bán hàng phục vụ du lịch dịp đầu năm và có cấy ruộng để tăng thêm thu nhập.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát phát biểu: Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội đồng xét xử (HĐXX) đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội xử: cho ly hôn giữa chị X và anh K; Giao cháu C và cháu D cho chị X nuôi dưỡng. Anh K không phải cấp dưỡng nuôi con chung, có quyền thăm nom con chung. Chị X phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Anh K đề nghị tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh K.

[2] Quan hệ hôn nhân giữa anh K và chị X là hợp pháp, được pháp luật công nhận. Chị X trình bày anh K nghi ngờ chị ngoại tình và thường xuyên chửi bới chị vô cớ dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn, không thể tiếp tục chung sống. Anh K không có quan điểm, ý kiến gì đối với trình bày và yêu cầu ly hôn của chị X. Do đó, HĐXX xác định mâu thuẫn của vợ chồng anh K, chị X đúng như chị X đã trình bày. Chị X xin ly hôn, anh K đề nghị tòa án không hòa giải đoàn tụ vợ chồng cho thấy bản thân anh K, chị X đều không muốn níu kéo quan hệ hôn nhân, không có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng. HĐXX xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng anh K, chị X là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, cần chấp nhận yêu cầu của chị X về việc ly hôn với anh K theo quy định tại khoản 1 điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Anh K, chị X có 02 con chung là cháu Nguyễn Ngọc C và cháu Nguyễn Đức D. Nguyện vọng được ở với mẹ trong trường hợp bố mẹ ly hôn của cháu C, cháu D phù hợp với quan điểm tôn trọng nguyện vọng của các con của anh K, chị X. Xét thấy, chị X có đủ điều kiện để chăm lo cho con chung và việc chị X không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện mặc dù đã được HĐXX giải thích về nghĩa vụ cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi con nên cần giao cho chị X được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và anh Khương không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Anh K, chị X không có yêu cầu tòa án giải quyết về tài sản chung, công nợ chung khi ly hôn nên HĐXX không xem xét, giải quyết. [5] Chị X phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào Điều 19, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Hồng K và chị Nguyễn Mai X.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Ngọc C, sinh ngày 29/10/2004 và cháu Nguyễn Đức D, sinh ngày 23/7/2007 cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh K không phải cấp dưỡng nuôi con chung, có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở và không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị X. Khi cần thiết, anh K, chị X có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị X phải nộp 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0002086 ngày 24/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoa Lư. Chị X đã nộp đủ.

Chị X có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 03/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoa Lư - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về