Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa anh N và chị T số 40/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU NGANG, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 40/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA ANH N VÀ CHỊ T

Trong ngày 15 tháng 7 năm 2022, tại Toà án nhân dân huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 257/2022/TLST-HNGĐ, ngày 26/4/2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2022/QĐST-HN, ngày 28/6/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1982; Địa chỉ: Ấp CG T, xã HMĐ, huyện CN, tỉnh Trà Vinh. Có mặt

Bị đơn: Chị Phan Thị Thanh T, sinh năm 1983; Địa chỉ: Ấp CGT, xã HMĐ, huyện CN, tỉnh Trà Vinh. Có mặt

Con chung của anh N và chị T tên Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các bản khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn anh Nguyễn Văn N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2011 anh và chị Phan Thị Thanh T quen nhau và xác lập quan hệ hôn nhân đến năm 2014 đăng ký kết hôn theo quy định, thời gian chung sống anh và chị T có 01 con chung tên Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 chị T đang nuôi, nguyên nhân mâu thuẫn anh N cho rằng anh chị thường xuyên cải nhau do tài chính và ly thân 04 năm nay, không thể hàn gắn được cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mạnh ai nấy sống tình cảm vợ chồng không còn. Nay anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với chị Phan Thị Thanh T.

Về con chung tên: Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 anh đồng ý để chị T nuôi và đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa anh N không tranh chấp, không khởi kiện, không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về số nợ phải thu, phải trả: Anh N không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các bản khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bị đơn chị Phan Thị Thanh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân chị T cho rằng chị và anh N cưới nhau năm 2013 đến năm 2014 mới đăng ký kết hôn, về con chung như anh N trình bày là đúng, về tài sản chung và về số nợ phải thu, phải trả không khởi kiện, không tranh chấp và không yêu cầu giải quyết. Nguyên nhân mâu thuẫn giữa vợ chồng chị T cho rằng là không hợp nhau bất đồng ý kiến, cải nhau thường xuyên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, ly thân 05 năm nay mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm nhau, mọi nhu cầu thiết yếu hàng ngày mỗi người tự lo liệu để sinh sống. Nay chị đồng ý ly hôn theo yêu cầu của anh N. Về con chung tên Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 chị yêu cầu được tiếp tục nuôi và yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi nhưng tại phiên toà hôm nay chị rút một phần yêu cầu về mức cấp dưỡng nuôi con chị chỉ yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng và cấp dưỡng mỗi năm một lần (cấp dưỡng đầu năm) cho đến khi con chung Nguyễn Thành T đủ 18 tuổi, về tài sản chung và số nợ phải thu, phải trả chị không khởi kiện, không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra chị không có yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa con chung của anh N và chị T tên Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 vắng mặt nên không có lời trình bày.

Lời phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật: Về thủ tục thụ lý hồ sơ vụ án, xác định quan hệ pháp luật, xác định người tham gia tố tụng, thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm đều đúng quy định pháp luật. Các văn bản tố tụng từ khi nhận đơn khởi kiện cho đến khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử đều tống đạt đầy đủ cho các đương sự nhận. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của anh N, ghi nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn giữa anh N và chị T, về con chung tên Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 tại phiên toà hôm nay cháu T vắng mặt nhưng tại biên bản ghi lời khai ngày 12/5/2022 con chung anh N và chị T tên Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 có nguyện vọng được sống chung với chị T nên giao con chung Nguyễn Thành T để chị T tiếp tục nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con anh N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, về tài sản chung và về số nợ phải thu, phải trả anh N và chị T không tranh chấp, không yêu cầu nên không xem xét, về án phí anh N phải chịu án phí hôn nhân gia đình và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết: Xét thấy bị đơn chị Phan Thị Thanh T có nơi cư trú trên địa bàn huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang theo quy định tại Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét đơn của anh Nguyễn Văn N khởi kiện xin ly hôn với chị Phan Thị Thanh T và yêu cầu nuôi con chung nên xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy anh N và chị T chung sống với nhau năm 2013 có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Căn cứ vào các Điều 08 và Điều 09 Luật hôn nhân và gia đình thì hôn nhân của anh N và chị T là hợp pháp.

Xét thấy quá trình chung sống giữa anh N và chị T tuy chưa thống nhất nhau về quan điểm đời sống vợ chồng, lối sống, về cách ứng xử giao tiếp thì anh chị phải biết tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với cuộc sống hiện tại, cùng nhau góp ý xây dựng, chia sẽ và tôn trọng lẫn nhau để tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách êm đẹp nhất nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình. Khi mâu thuẫn phát sinh anh N và chị T đều bỏ mặt cho hậu quả xảy ra, không còn quan tâm đến tình nghĩa vợ chồng, anh chị luôn bất hòa với nhau về mọi mặt, từ khi ly thân đến nay mạnh ai nấy sống làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng rạng nức. Nay anh N xác định tình cảm không còn với chị T do bất đồng quan điểm sống vợ chồng nên yêu cầu ly hôn với chị T và tại phiên toà hôm nay chị T cũng thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng không hàn gắn được nên cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của anh N. Tòa án mở hai phiên họp để hòa giải đoàn tụ vợ chồng nhưng anh N và chị T cũng không giải quyết được mâu thuẫn vợ chồng, từ đó cho thấy việc hàn gắn đoàn tụ vợ chồng của anh N và chị T là không kết quả. Tình cảm vợ chồng của anh N và chị T không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được căn cứ vào Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn của anh N và chị T.

Về nuôi con tên: Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 là con chung của anh N và chị T, trong thời gian anh chị ly thân đến nay con chung Nguyễn Thành T sống chung với chị T, được chị T nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo về mọi mặt. Tại phiên tòa hôm nay chị T xin được quyền nuôi dưỡng con chung và cũng tại biên bản hòa giải ngày 12/5/2022 con chung tên Nguyễn Thành T có nguyện vọng được sống chung với chị T, để con Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 có cuộc sống ổn định về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, Hội đồng xét xử giao con chung Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 cho chị T được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa hôm nay anh Nguyễn Văn N tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung tên Nguyễn Thành T mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và cũng tại phiên toà hôm nay chị T đồng ý để anh N cấp dưỡng nuôi con chung tên Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 mỗi tháng là 1.000.000 đồng nhưng phương thức cấp dưỡng là mỗi năm một lần (cấp dưỡng đầu năm) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Xét anh N tự nguyện cấp dưỡng nuôi con tên Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 mỗi tháng 1.000.000 đồng hình thức cấp dưỡng là hàng tháng và cấp dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là phù hợp theo quy định tại Điều 107, 110 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay anh N và chị T không khởi kiện, không tranh chấp, Hội đồng xét xử không xem xét.

Về số nợ phải thu, phải trả: Anh N và chị T không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh N phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

[4] Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh N phải nộp án phí theo quy định pháp luật. nhận.

- Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 01 Điều 28, 35, 39, Điều 147, 235 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 107, 110 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Nguyễn Văn N.

Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn giữa anh Nguyễn Văn N và chị Phan Thị Thanh T.

Về nuôi con: Chị Phan Thị Thanh T được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con tên Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 sau khi ly hôn.

Anh Nguyễn Văn N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Nguyễn Văn N phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con tên Nguyễn Thành T, sinh ngày 25/4/2014 mỗi tháng 1.000.000 đồng phương thức cấp dưỡng là hàng tháng và cấp dưỡng cho đến khi con chung Nguyễn Thành T đủ 18 tuổi. Thời hạn cấp dưỡng được tính kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ khi có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu thêm cho bên được thi hành khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay anh N và chị T không khởi kiện, không tranh chấp, Hội đồng xét xử không xem xét.

Về số nợ phải thu, phải trả: Anh N và chị T không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Buộc Nguyễn Văn N có nghĩa vụ nộp 300.000 đồng, nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0010780 ngày 19/4/2022 do anh N nộp cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cầu Ngang thu, anh Nguyễn Văn N đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Nguyễn Văn N có nghĩa vụ nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa anh N và chị T số 40/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:40/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Ngang - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về