TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-PT NGÀY 14/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 14 tháng 7 năm 2022, Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử trực tuyến công khai vụ án Hôn nhân gia đình phúc thẩm thụ lý số 05/2022/TLPT-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2022, về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Điểm cầu trung tâm tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, điểm cầu thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ.
Những người tiến hành tố tụng tại điểm cầu thành phần: Bà Đặng Thị Thanh Huyền Thư ký Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ.Do bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 09/2022/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐ-PT ngày 22 tháng 6 năm 2022; Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 01/2022/TB-TA ngày 04/7/2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Ph, sinh năm 2000 (Có mặt). ĐKHKTT: Thôn Đại H, xã Hà K, huyện T, tỉnh Hải Dương; Chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã Hà T, huyện T, tỉnh Hải Dương;
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1995 (Có mặt). ĐKHKTT: Thôn Đại H, xã Hà K, huyện T, tỉnh Hải Dương
- Người làm chứng:
+ Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1954 và bà Đào Thị B, sinh năm 1960 ( Vắng mặt).Trú quán: thôn Đại H, xã Hà K, huyện T, tỉnh Hải Dương
+ Ông Phạm Văn Tr, sinh năm 1967 và bà Vũ Thị Th, sinh năm 1969 (Vắng mặt).Trú quán: thôn Bình C, xã Hà T, huyện T, tỉnh Hải Dương.
- Người kháng cáo: Anh Nguyễn Văn V (Bị đơn).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm số 09/2022/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, vụ án có nội dung tóm tắt như sau:
Theo nguyên đơn chị Phạm Thị Ph trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn V kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hà K ngày 16/9/2019. Sau khi kết hôn, chị và anh V làm ăn, sinh sống tại gia đình cùng bố mẹ anh V. Vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau về cách sống, sinh hoạt, anh V là người nóng tính, gia trưởng, mỗi khi vợ chồng mâu thuẫn, anh V có đánh, chửi chị. Do cuộc sống chung không có hạnh phúc và bị đuổi, nên từ tháng 11/2021, chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân, mặc dù anh V có nhắn tin, gọi điện và gia đình hai bên đã động viên hòa giải nhưng chị không thể tiếp tục chung sống với anh V được nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh V để hai bên sớm ổn định cuộc sống.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Diệu L, sinh ngày 27/02/2020, hiện đang ở với anh V. Chị xin được nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con. Hiện chị làm công nhân, mức thu nhập trung bình khoảng 7 triệu đồng/tháng.
Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai nên chị không yêu cầu Toà án giải quyết.
Theo bị đơn anh Nguyễn Văn V trình bày: Về thời gian và điều kiện kết hôn như chị Ph trình bày là đúng. Vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau trong cách sống, sinh hoạt, bất đồng về quan điểm. Trong cuộc sống chị Ph cư xử không đúng mực dẫn đến vợ chồng xô xát, bực tức anh có tát chị Ph, sau đó chị Ph tự bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, anh đã nhiều lần nhắn tin, gọi điện nhưng chị Ph không nghe, hai bên gia đình đã động viên, khuyên giải nhưng chị Ph không về đoàn tụ. Nay chị Ph xin ly hôn, anh xác định tình cảm vợ chồng không còn và nhất trí ly hôn để hai bên sớm ổn định cuộc sống.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Diệu L, sinh ngày 27/02/2020 hiện đang ở với anh. Ly hôn anh đề nghị được nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu chị Ph phải cấp dưỡng nuôi con. Hiện anh làm nghề chăn nuôi tự do tại nhà, có thu nhập khoảng 20 triệu đồng/tháng, bố mẹ anh tạo điều kiện cho anh có nhà ở rộng rãi, anh không đồng ý giao con chung cho chị Ph nuôi dưỡng, vì xét về mọi mặt chị Ph nuôi con không bằng anh.
Về tài sản chung, nợ chung: anh V không yêu cầu Toà án giải quyết.
Kết quả làm việc với ông Phạm Văn Tr (bố đẻ chị Ph) xác định: chị Ph, anh V được tự do tìm hiểu, tự nguyện có đăng ký kết hôn theo quy định. Tuy nhiên vợ chồng hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Anh V đã đánh chị Ph nên chị Ph về nhà ông bà ở từ đó cho đến nay. Ông xác định mâu thuẫn giữa anh V và chị Ph đã trầm trọng. Đề nghị Tòa án giải quyết cho chị Ph ly hôn anh V để hai bên sớm ổn định cuộc sống. Trường hợp Toà án giao con cho chị Ph nuôi dưỡng, vợ chồng ông sẽ tạo mọi điều kiện về chỗ ở, sinh hoạt và hỗ trợ chị Ph chăm sóc con với những điều kiện tốt nhất.
Kết quả làm việc với ông Nguyễn Ngọc T và bà Đào Thị B (bố mẹ đẻ anh V) xác định: về thời gian và điều kiện kết hôn như anh chị đã trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, anh chị về ở cùng với ông bà; chị Ph đi làm công nhân, anh V ở nhà làm chăn nuôi. Quá trình chung sống, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn nhưng là những mâu thuẫn nhỏ trong sinh hoạt đời thường. Có việc chị Ph chửi anh V nên anh V đã tát chị Ph, từ đó chị Ph làm ầm ĩ lên và bỏ về nhà bố mẹ đẻ từ tháng 11/2021. Mặc dù đã được động viên, hòa giải nhưng chị Ph kiên quyết không về đoàn tụ và làm đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn để hai bên sớm ổn định cuộc sống. Trường hợp Toà án giao con cho anh V nuôi dưỡng, vợ chồng ông sẽ tạo mọi điều kiện về chỗ ăn ở, sinh hoạt và hỗ trợ anh V chăm sóc con với những điều kiện tốt nhất.
- Kết quả làm việc với lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã Hà T, đại diện cán bộ lao động thương binh xã hội và Trưởng thôn B cho thấy: chị Ph, anh V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo luật định. Do sau khi kết hôn, anh chị sinh sống tại gia đình anh V ở thôn Đại H, xã Hà K nên mâu thuẫn vợ chồng cụ thể như thế nào thì địa phương không nắm được. Thực tế từ khoảng tháng 11/2021, chị Ph về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng ly thân. Nay chị Ph xin ly hôn anh V, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Vợ chồng có 01 con chung như các đương sự đã trình bày, trường hợp Tòa án giao con cho chị Ph nuôi dưỡng cũng đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu.
- Kết quả làm việc với lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã Hà K, đại diện cán bộ lao động thương binh xã hội và Trưởng thôn Đ đều được cung cấp: quá trình chung sống anh V và chị Ph có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do không hợp nhau trong cách sống, sinh hoạt. Từ tháng 11/2021, chị Ph bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị Ph xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Vợ chồng có 01 con chung đang ở với anh V và ông bà nội. Hiện nay anh V vẫn ở chung với bố mẹ, bố mẹ anh V có nhà ở mái bằng hai tầng rộng rãi và tạo điều kiện cho bố con anh V ăn ở, sinh hoạt. Bố mẹ anh V còn khỏe mạnh và có thể hỗ trợ anh V nuôi con, anh V đang chăn nuôi tại nhà có thu nhập và có đủ điều kiện nuôi con.
Tại Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 09/2022/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương đã căn cứ Điều 51, 55, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Toà án.
Xử: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Phạm Thị Ph và anh Nguyễn Văn V.
Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị Ph được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Nguyễn Diệu L, sinh ngày 27/02/2020 cho đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ph không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con. Anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/5/2022 anh Nguyễn Văn V kháng cáo không đồng ý giao con cho chị Ph nuôi. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án sơ thẩm theo hướng giao con cho anh V nuôi. Anh V tự nguyện không yêu cầu chị Ph cấp dưỡng nuôi con.
Tại phiên tòa anh V vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Bị đơn chị Phạm Thị Ph không nhất trí nội dung kháng cáo của anh V, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biều về việc tuân theo pháp luật và đường lối giải quyết vụ án như sau:
Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về hướng giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cũng như lời trình bày của các đương sự cho thấy chị Ph và anh V đều đủ điều kiện nuôi con. Tuy nhiên do cháu L còn nhỏ (dưới 36 tháng tuổi) nên Tòa án cấp sơ thẩm giao cháu L cho chị Ph nuôi là đúng quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và Gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Văn V. Anh V phải chịu án phí Hôn nhân gia đình phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, nghe ý kiến trình bày của các bên đương sự, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của anh Nguyễn Văn V trong thời hạn luật định nên kháng cáo hợp lệ.
[2] Về nội dung:
Xét nội dung kháng cáo của anh Nguyễn Văn V: Anh V kháng cáo cho rằng chị Ph thiếu trách nhiệm trong việc chăm sóc con nên anh không đồng ý giao con cho chị Ph nuôi dưỡng. Tuy nhiên anh V không đưa ra được căn cứ chứng minh. Về phía chị Ph thì không thừa nhận. Chị cho rằng chị vẫn thường xuyên đến thăm con. Khi về nhà bố mẹ đẻ sinh sống chị rất muốn đưa con đi theo nhưng do anh V và gia đình không đồng ý nên chị không thể đưa con về cùng với chị.
Xem xét về điều kiện nuôi con của chị Ph và anh V Hội đồng xét xử thấy: Chị Ph hiện là công nhân có thu nhập ổn định. Anh V là lao động tự do, có sức khỏe nên cũng có đủ điều kiện về kinh tế nếu được giao nuôi con. Cả 2 anh chị đều được bố mẹ hỗ trợ trong việc chăm sóc con. Tuy nhiên đến thời điểm này cháu L mới được hơn 2 tuổi, theo khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân gia đình quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Thực tế cho thấy chị Ph có thu nhập ổn định và không thuộc trường hợp không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con. Bố mẹ chị Ph cũng có quan điểm sẽ tạo mọi điều kiện về chỗ ở, sinh hoạt và hỗ trợ để chị Ph có điều kiện chăm sóc con tốt nhất. Chị Ph và anh V cũng không có sự thỏa thuận về việc chị Ph đồng ý để anh V nuôi cháu Linh. Do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của anh V.
[3].Về án phí: Anh Nguyễn Văn V kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Văn V. Giữ nguyên bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 09/2022/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương về quan hệ con chung như sau:
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Toà án.
Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị Ph được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Nguyễn Diệu L, sinh ngày 27/02/2020 cho đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ph không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con. Anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở 2. Về án phí phúc thẩm: Anh Nguyễn Văn V phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm, được đối trừ vào tiền tạm ứng án phí anh đã nộp theo biên lai số AA/2020/0004461ngày 09/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Anh V đã thi hành xong phần án phí Hôn nhân gia đình phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con (con dưới 36 tháng tuổi) số 06/2022/HNGĐ-PT
Số hiệu: | 06/2022/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về