Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 52/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 52/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2022  VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG 

Ngày 25 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2022/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022 về việc Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2022/QĐ-ST ngày 28/02/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 32/2022/QĐST-HNGĐ ngày 28/3/2022 giữa các đương sự:

1. N đơn: Chị Trần Thị N, sinh ngày 15/6/1992 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

2. Bị đơn: Anh Đỗ Văn N, sinh ngày 13/10/1988 (vắng mặt)  Hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang (Hiện đang lao động tại nước ngoài không có địa chỉ).

Địa chỉ cuối cùng của anh N tại Việt Nam: Thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc  Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn chị Trần  Thị N trình bày:

Về hôn nhân: Trước khi kết hôn chị và anh Đỗ Văn N được tự do tìm hiểu rồi đi đến hôn nhân. Khi cưới được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục của địa phương. Chị và anh N đăng ký kết hôn ngày 29/3/2010 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang nơi anh N đăng ký hộ khẩu thường trú. Sau khi kết hôn chị về nhà anh N làm dâu ngay, vợ chồng chung sống hòa thuận. Tháng  4/2019 anh N đi lao động tại nước ngoài (Đài Loan). Sau khi anh N đi lao động hai vợ chồng vẫn thường xuyên gọi điện hỏi thăm nhưng đến tháng 12/2019 thì xảy ra  mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống. Trong thời gian vợ chồng mâu thuẫn vợ chồng nhiều lần nói chuyện với mong muốn tiếp tục chung sống để chăm sóc con nhưng do bất đồng quan điểm quá lớn nên không có kết quả. Khi hai bên gia đình biết chuyện có gọi điện khuyên bảo hai vợ chồng về đoàn tụ nhưng  chị và anh N đều xác định không còn tình cảm nên không về đoàn tụ được. Kể từ tháng 01/2020 đến nay chị và anh N không còn gọi điện hỏi thăm sức khỏe của  nhau, ai có cuộc sống riêng của người đó. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án xử cho tôi được ly hôn anh Đỗ Văn N.

Về con chung: Chị và anh N có 02 con chung là cháu Đỗ Thành Đ, sinh ngày 27/12/2010 và cháu Đỗ Thành T, sinh ngày 23/12/2017. Hiện nay các cháu đang sinh sống cùng chị. Chị đề nghị Tòa giao con chung cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn. Chị không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ: Không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Đỗ Văn N là bị đơn không có mặt tại địa phương, không gửi văn bản giấy tờ, tài liệu về cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.

Tại biên bản làm việc ngày 23/3/2022 và 04/04/2022, ông Đỗ Văn N1 là bố đẻ anh Đỗ Văn N cung cấp anh N hiện nay đang đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Về hôn nhân của anh N, chị N đăng ký kết hôn ngày 29/3/2010 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn, chị N về nhà ông làm dâu ngay và chung sống hòa thuận với gia đình nhà chồng. Khoảng tháng 7/2018 anh N đi lao động tại Đài Loan. Sau khi anh N đi lao động một thời gian thì chị N nói vợ chồng có mâu thuẫn. Mâu thuẫn như thế nào thì ông không biết. Ông có khuyên bảo nhưng anh, chị không thống nhất được với nhau. Anh N, chị N có 02 con chung là cháu Đỗ Thành Đ, sinh ngày 27/12/2010 và cháu Đỗ Thành T, sinh ngày 23/12/2017. Hiện nay các cháu đang sinh sống cùng chị N. Về tài sản chung, công nợ của anh, chị ông không biết. Anh N vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, nhưng anh N không cung cấp cho gia đình, Tòa án địa chỉ cụ thể của anh N tại Đài Loan.

Cháu Đỗ Thành Đ có đơn trình bày: Cháu hiện đang ở cùng mẹ, được mẹ chăm  sóc nuôi dưỡng tốt, vì vậy nếu bố mẹ cháu ly hôn cháu xin ở cùng với mẹ.

Tại phiên tòa, Chị Trần Thị N vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh  Đỗ Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt.

Hội đồng xét xử tóm tắt nội dung vụ án, công bố đơn khởi kiện, bản tự khai của chị Trần Thị N; Biên bản làm việc với bố đẻ của anh Đỗ Văn N và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu về việc tuân theo pháp luật về tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.

Về việc chấp hành pháp luật của đương sự: Đối với N đơn chị N có đơn xin xét xử vắng mặt thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn anh N không có địa chỉ cụ thể ở nước ngoài, Tòa án đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với anh N. Căn cứ các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt anh N là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 53, 56, 81, 82,  83, khoản 2 Điều 123 và Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271; Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTBVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị N.

Xử cho chị Trần Thị N được ly hôn anh Đỗ Văn N.

Về con chung: Do anh N hiện nay đang đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài nên đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 con chung là cháu Đỗ Thành Đ, sinh ngày  27/12/2010 và cháu Đỗ Thành T, sinh ngày 23/12/2017cho chị Trần Thị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản, công nợ: Do chị N không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Chị Trần Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền, quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Trần Thị N khởi kiện xin ly hôn anh Đỗ Văn N. Theo Công văn trả lời số 4747/QLXNC-P5 về việc cung  cấp thông tin xuất nhập cảnh ngày 09/03/2022 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an cung cấp, anh N xuất cảnh gần đây nhất là ngày 23/4/2019, hiện chưa có thông tin nhập cảnh về nước. Do đó, anh N được xác định là đang ở nước ngoài.

Ngoài ra, lời khai của N đơn chị N, ông Đỗ Văn N1 là bố anh N xác định được nơi cư trú cuối cùng của anh N ở Việt Nam trước khi xuất cảnh lần gần nhất là: thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Anh N, chị N đều có hộ khẩu thường trú tại tỉnh  Bắc Giang. Vì vậy, đây là vụ án “ly hôn, tranh cháp về nuôi con chung”. Do vụ án   có một bên đương sự ở nước ngoài, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35,  điểm c khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về  sự vắng mặt đương sự: Chị Trần Thị N là N đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị Trần Thị N.

Đối với bị đơn anh Đỗ Văn N vắng mặt tại phiên tòa: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tiến hành làm việc với bố đẻ của anh N là ông Đỗ Văn N1 để giao thông báo thụ lý vụ án và đề nghị ông N1 thông báo cho anh N biết việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý vụ giải quyết vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa chị Trần Thị N và anh Đỗ Văn N. Ông Ngọc cho biết anh N vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, nhưng anh N không cung cấp cho gia đình, Tòa án địa chỉ cụ thể của anh N tại Đài Loan. Nhận thấy, đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Do đó, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cần tống đạt cho bị đơn và xử vắng mặt bị đơn theo Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao và khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị N và anh Đỗ Văn N kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 29/3/2010 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Đây là hôn nhân hợp pháp cần được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án xử cho chị được ly hôn anh Đỗ Văn N.

Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Trần Thị N với anh Đỗ Văn N. Hội đồng xét xử thấy: Sau khi kết hôn chị N và anh N chung sống với nhau hòa thuận tại gia đình nhà chồng, sau đó anh N đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Thời gian đầu vợ chồng vẫn hòa thuận, liên lạc với nhau, nhưng từ tháng 12/2019 đến nay do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng không còn liên lạc với nhau. Chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh N được ly hôn. Do đó, xác định vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không Đ được. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N, cho chị N và anh N được ly hôn là hoàn toàn phù hợp với Điều 51, Điều 53 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về nuôi con chung: Chị N và anh N có 02 con chung là cháu Đỗ Thành Đ, sinh ngày 27/12/2010 và cháu Đỗ Thành T, sinh ngày 23/12/2017. Hiện nay hai con chung đang sinh sống cùng chị N và do chị N chăm sóc, nuôi dưỡng. Ly hôn chị N có nguyện vọng nuôi cả hai con chung.

Xét yêu cầu nuôi con chung của chị N: Hội đồng xét xử thấy hiện nay anh N đang lao động tại nước ngoài không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Anh N từ khi đi nước ngoài thì cháu Đ, cháu T vẫn do chị N là người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc, các cháu phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, được đi học đầy đủ. Ngoài ra, cháu Đ trên 07 tuổi trình   bầy có nguyện vọng được ở cùng mẹ. Do đó, có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị N đối với yêu cầu được nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con chung sau khi ly hôn. Do vậy, căn cứ Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình: Giao chị N là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung là Đỗ Thành Đ và Đỗ Thành T đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp với điều kiện thực tế cũng như quyền và lợi ích về mọi mặt của con chung và nguyện vọng của con chung. Sau khi ly hôn anh Đỗ Văn N có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh N thực hiện quyền này.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử  không xem xét.

Trường hợp anh Đỗ Văn N về Việt Nam có nguyện vọng nuôi con chung hoặc vì quyền lợi chính đáng của con chung, các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn bằng vụ án khác theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân gia đình.

[5]. Về tài sản, công nợ: Chị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị Trần Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo  quy định tại Điều 271, Điều 273 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, khoản 2 Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1  Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ Luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý  và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử:

1. Về hôn nhân: Chị Trần Thị N được ly hôn anh Đỗ Văn N.

2. Về nuôi con chung: Giao 02 con chung là cháu Đỗ Thành Đ, sinh ngày  27/12/2010 và cháu Đỗ Thành T, sinh ngày 23/12/2017 cho chị Trần Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Anh Đỗ Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh Đỗ Văn N không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm  nom con mà không ai được cản trở anh N thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Chị Trần Thị N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0000314 ngày 28/02/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang. Xác nhận chị Trần Thị N đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Trần Thị N vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Đỗ Văn N hiện đang ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa, có thời hạn kháng cáo Bản án là 01 tháng kể từ ngày bản án được tống Đ hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 52/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:52/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về