Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 60/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BN ÁN 60/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN 

Ngày 25 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 279/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung khy ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2022/QĐST- HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 giữa:

1.Nguyên đơn: Chị Vũ Thị L – Sinh năm 1989 Địa chỉ: KDC C, phường C, Thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

2.Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Th – Sinh năm 1982 Địa chỉ trước khi xuất cảnh: KDC V, phường V, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Hiện cư trú tại Nhật Bản. Vắng mặt.

3. Người đại diện theo ủy quyền của chị Lập để nhận các văn bản tố tụng: Chị Vũ Thị Ch – Sinh năm 1990, địa chỉ: KDC Tr, phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Hải Đ – Sinh năm 1953, địa chỉ: KDC V, phường V, TP C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn chị Vũ Thị L trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn Th tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, thị xã C (nay là phường V, thành phố C), tỉnh Hải Dương ngày 18/10/2007. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp về tính cách, lối sống dẫn đến không có tiếng nói chung, thường xuyên xảy ra cãi nhau. Đến tháng 6/2019 chị và các con về nhà bố mẹ đẻ ở KDC C, phường C, TP C để sinh sống và vợ chồng sống ly thân. Năm 2019 anh Thuần đi lao động ở Nhật Bản, vợ chồng chỉ liên lạc hỏi thăm tình hình của con chung chứ không còn quan tâm đến tình cảm vợ chồng. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh Th.

Về con chung: Chị và anh Th có hai con chung là Nguyễn Tùng D, sinh ngày 09/2/2009 hiện đang ở với ông nội là Nguyễn Hải Đ và con chung là Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 30/8/2012 hiện đang sinh sống cùng với chị. Nay vợ chồng ly hôn, chị đề nghị nuôi con là Nguyễn Hải Đ, còn anh Th nuôi con là Nguyễn Tùng D. Chị nhất trí để ông Nguyễn Hải Đ tạm nuôi cháu trong thời gian anh Th ở nước ngoài. Hai người không phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai của con chung là Nguyễn Tùng D có nguyện vọng được ở với bố là Nguyễn Văn Th và ông nội. Con chung là Nguyễn Hải Đ có nguyện vọng được ở với mẹ là Vũ Thị L.

Tại lời khai của ông Nguyễn Hải Đ (bố đẻ anh Th) thể hiện: Anh Nguyễn Văn L hiện đang sinh sống ở Nhật Bản, gia đình không biết địa chỉ cụ thể. Nguyên nhân mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa anh Th và chị L là do không hòa hợp trong cuộc sống của gia đình dẫn đến cãi nhau. Vợ chồng sống ly thân từ lâu. Nay chị L có đơn ly hôn, gia đình đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Gia đình ông Đ cũng thường xuyên liên lạc với anh Thuần qua điện thoại và đã thông báo việc chị L khởi kiện ly hôn. Anh Th có quan điểm định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. Về con chung anh Th có nguyện vọng nuôi con Nguyễn Tùng D, còn để chị L nuôi con Nguyễn Hải Đ, không ai phải cấp dưỡng cho con. Về tài sản chung không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Anh Th đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Anh Th đã ủy quyền cho ông Nguyễn Hải Đ tạm nuôi cháu Nguyễn Tùng D trong thời gian anh ở nước ngoài. Ông Đ nhất trí quan điểm của anh Th.

Tòa án xác minh tại địa phương nơi đương sự sinh sống thể hiện: Chị L và anh Th kết hôn hợp pháp và sinh sống tại địa phương. Do vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống và trong quan hệ kinh tế gia đình nên dẫn đến mâu thuẫn căng thẳng, chị L cũng đề nghị đoàn thể, địa phương và gia đình khuyên bảo, hàn gắn quan hệ hôn nhân nhưng không có kết quả. Nay chị L có đơn khởi kiện ly hôn anh Th, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, chị L vắng mặt và có đơn đề nghị giữ nguyên đối với yêu cầu khởi kiện. Ông Đ vắng mặt và đề nghị giải quyết vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Đối với các đương sự: Thực hiện đúng các quy định của BLTTDS về quyền, nghĩa vụ. Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật HN&GĐ, Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326 quy định về mức thu, miễn giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Vũ Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn Th. Về con chung: Giao con là Nguyễn Hải Đăng cho chị Vũ Thị L nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Tùng Dương cho anh Thuần nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng cho con. Tạm giao con Nguyễn Tùng D cho ông Nguyễn Hải Đ nuôi dưỡng trong thời gian anh Th ở nước ngoài. Về án phí: Chị Vũ Thị L phải chịu 300.000đ án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Vũ Thị L sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Nguyễn Văn Th có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở phường Văn Đ, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Nhật Bản không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị L và gia đình anh Th không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh Th ở nước ngoài. Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Mặt khác, gia đình ông Đ vẫn thường xuyên liên lạc với anh Th nên Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho gia đình để thông báo cho anh Th biết. Tại phiên tòa, anh Th vắng mặt lần thứ hai, chị L, ông Đ vắng mặt và đề nghị giải quyết vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị L và anh Nguyễn Văn Th tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Văn Đ, thị xã C (nay là phường V, thành phố C), tỉnh Hải Dương ngày 18/10/2007 là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp về tính cách, lối sống, không có tiếng nói chung trong cuộc sống cũng như trong làm ăn kinh tế, thường xuyên xảy ra cãi nhau. Tháng 6/2019 vợ chồng sống ly thân. Năm 2019 anh Th cũng đi lao động ở Nhật Bản. Từ đó cho đến nay vợ chồng không còn quan tâm tới nhau nữa. Thông qua gia đình, anh Th thông tin và xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh Th đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và được chứng minh qua lời khai của các đương sự, đại diện gia đình và chính quyền địa phương nơi các đương sự sinh sống. Căn cứ quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Vũ Thị L ly hôn anh Nguyễn Văn Th là phù hợp.

[2.2] Về quan hệ nuôi con: Chị L và anh Th có hai con chung là Nguyễn Tùng Dương, sinh ngày 09/2/2009 hiện đang ở với ông nội là Nguyễn Hải Đ và con chung là Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 30/8/2012 hiện đang sinh sống cùng với chị L. Để ổn định cuộc sống của các con chung và đảm bảo các điều kiện phát triển bình thường của con chung, cần chấp nhận yêu cầu của các đương sự giao anh Th nuôi con chung Nguyễn Tùng D, giao cho chị L nuôi con Nguyễn Hải Đ. Trong thời gian anh Thuần ở nước ngoài cần tạm giao cho ông Nguyễn Hải Đ nuôi cháu Nguyễn Tùng D. Chị L và anh Th không yêu cầu cấp dưỡng cho con nên HĐXX không xem xét giải quyết. Như vậy là phù hợp với thực tế và quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, cũng như nguyện vọng của các con chung.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung không có nên các đương sự không đề nghị Tòa án giải quyết. Do vậy, HĐXX không đặt ra giải quyết.

[3]. Về án phí: Nguyên đơn chị Vũ Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị L ly hôn anh Nguyễn Văn Th 2. Về quan hệ nuôi con: Giao cho chị Vũ Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 30/8/2012. Giao cho anh Nguyễn Văn Th nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Nguyễn Tùng D, sinh ngày 09/2/2009. Chấp nhận sự tự nguyện của chị L, anh Th không yêu cầu cấp dưỡng cho con.

Tạm giao cho ông Nguyễn Hải Đ nuôi cháu Nguyễn Tùng D trong thời gian anh Nguyễn Văn Th ở nước ngoài.

Không ai được cản trở chị Vũ Thị L, anh Nguyễn Văn Th thực hiện quyền, nghĩa vụ trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0004623 ngày 09 tháng 12 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về phần có liên quan, thời hạn kháng là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 60/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:60/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về