TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL - TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 56/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 07 tháng 9 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 194/2022/TLST-HNGĐ, ngày 14 tháng 7 năm 2022, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2022/QĐXXST- HNGĐ, ngày 22 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Diễm T, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện M, tỉnh Đắk Nông. (có mặt)
Bị đơn: Anh Đinh Tấn C, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện M, tỉnh Đắk Nông. (có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 23/6/2022, biên bản lấy lời khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị Diễm T trình bày:
- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Diễm T và anh Đinh Tấn C kết hôn năm 2020 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện M. Sau khi kết hôn cuộc sống hôn nhân giữa chị T và anh C không hạnh phúc, thường nảy sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau, không yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hòa hợp. Từ những lý do trên dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh C ngày một trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, chị T và anh C không còn chung sống với nhau từ tháng 6 năm 2022 cho đến nay nên không thể tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân được nữa. Vì vậy, chị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh C.
- Về con chung: Trong quá trình chung sống chị T và anh C có 01 con chung là Đinh Nguyễn Gia L, sinh ngày 02/5/2020, chị T có nguyện vọng muốn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến khi đủ 18 tuổi.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung, nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại đơn xin xét xử vắng mặt bị đơn là anh Đinh Tấn C bày: Đối với yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Diễm T thì anh C đồng ý ly hôn với chị T; về con chung anh C sẽ giao con chung là Đinh Nguyễn Gia L, sinh ngày 02/5/2020 cho chị Nguyễn Thị Diễm T được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc; Về tài sản chung và công nợ không có.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HĐXX và Người tham gia tố tụng:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Đã chấp hành đầy đủ theo quy định của pháp luật từ quá trình thụ lý, lập hồ sơ vụ án Thẩm phán đã tiến hành đúng theo quy định của pháp luật. Xác định đúng quan hệ tranh chấp giữa các bên; Tiến hành thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ đến các đương sự. Thẩm phán đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và lập biên bản không tiến hành hòa giải được đúng theo quy định. Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng mọi thủ tục, trình tự xét xử theo đúng quy định. Hội đồng xét xử đúng thành phần, thực hiện đúng theo quy định, không có trường hợp nào phải thay đổi người tiến hành tố tụng, Hội đồng xét xử đã hỏi và thu thập chứng cứ đúng theo quy định của pháp luật.
Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ các quy định, quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Bị đơn vắng mặt nhưng đã có có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt, vì vậy Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với khoản 1 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Sau khi phân tích các tình tiết của vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, về con chung giao Đinh Nguyễn Gia L, sinh ngày 02/5/2020 cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục đến khi đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị T không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.
Về án phí: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Diễm T phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
1.1. Về thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị Diễm T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và quyền nuôi con chung khi ly hôn nên quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung khi ly hôn”. Bị đơn là anh Đinh Tấn C có nơi cư trú tại thôn T, xã A, huyện M, tỉnh Đắk Nông. Vì vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng Dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil.
1.2. Tại phiên tòa bị đơn là anh Đinh Tấn C vắng mặt, tuy nhiên đã có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung:
2.1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Diễm T và anh Đinh Tấn C kết hôn năm 2020 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A theo Giấy chứng nhận kết hôn số 10, ngày 20/02/2020. Như vậy, theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình thì quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh C là hợp pháp.
Xét lý do chị T yêu cầu ly hôn anh C là vì sau khi kết hôn cuộc sống hôn nhân giữa chị và anh C không hạnh phúc, thường nảy sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau, không yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống và tính cách không hòa hợp. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị và anh C ngày càng trở nên trầm trọng, đã không còn sống chung với nhau từ tháng 06 năm 2022 đến nay dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn.
Hội đồng xét xử thấy rằng vợ chồng chung sống có hạnh phúc phải dựa trên sự yêu thương, tôn trọng, phải chung sống với nhau để cùng nhau quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, phải có sự hòa hợp chia sẻ với nhau mọi vấn đề trong cuộc sống. Tuy nhiên, sau khi kết hôn cuộc sống hôn nhân giữa chị T và anh C thường nảy sinh mâu thuẫn, hay xảy ra cải nhau, chị T và anh C đã không còn sống chung với nhau từ tháng 06 năm 2022 điều này cho thấy hôn nhân giữa chị T và anh C không thể hàn gắn được, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh C cũng đồng ý ly hôn chị T, do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận cho chị T ly hôn anh C là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
2.2. Về con chung: Đối với con chung là Đinh Nguyễn Gia L, sinh ngày 02/5/2020. Chị T có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung đến khi đủ 18 tuổi.
Xét thấy, từ khi chị T và anh C không còn sống chung thì con chung đều do chị T chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cho đến nay. Anh C cũng chấp nhận giao con chung cho chị T được trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi nên Hội đồng xét xử thấy rằng giao con chung cho chị T được trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi là cần thiết, đảm bảo được các quyền lợi cho con chung và phù hợp khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình .
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
2.3. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[3]. Về án phí : Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Nguyễn Thị Diễm T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 266, Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Diễm T.
1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Diễm T ly hôn anh Đinh Tấn C.
2. Về con chung: Giao con chung là Đinh Nguyễn Gia L, sinh ngày 02/5/2020 cho chị Nguyễn Thị Diễm T trực tiếp trôm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi.
Sau khi ly hôn chị Nguyễn Thị Diễm T và anh Đinh Tấn C có các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung theo quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.
- Quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định tại khoản 1 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.
- Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình.
- Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.
- Quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết.
4. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị Diễm T phải nộp số tiền 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị T đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Mil theo biên lai số 0000971, ngày 14 tháng 7 năm 2022.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.
Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 56/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 56/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về