Bản án về ly hôn số 793/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 793/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ LY HÔN

Trong ngày 12 tháng 8 năm 2022, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 276/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 231/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 207/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1990 – Có đơn xin vắng mặt. Địa chỉ: 456A7/18 ấp 1, xã An P, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Nguyễn Việt S, sinh năm 1981 – Vắng mặt.

Địa chỉ: D5/18 khu phố 4, thị trấn Tân T1, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện về việc ly hôn đề ngày 03/3/2021, bản tự khai ngày 09/4/2021, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 31/3/2022 và biên bản về việc không tiến hành hòa giải được ngày 31/3/2022, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T trình bày:

Bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S chung sống với nhau từ năm 2012, có tổ chức đám cưới, do mai mối và có đăng ký kết hôn vào ngày 27/7/2012 tại Ủy ban nhân dân xã Trường X, huyện Thới L, Thành phố Cần Thơ theo Giấy chứng nhận kết hôn số 130, quyển số II/2012. Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc, không có gì xảy ra.

Đến khoảng năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, tính tình không còn hòa hợp. Hạnh phúc vợ chồng không còn dù bà T đã cố gắng hàn gắn. Bà T và ông S đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, nay bà Nguyễn Thị Ngọc T yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Việt S.

Về con chung: Bà T và ông S chung sống có 02 con chung tên là Nguyễn Bình Nh (nữ), sinh ngày 17/02/2013 và Nguyễn Bình Như M (nữ), sinh ngày 14/7/2015. Khi ly hôn, bà T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác nhận không có tài sản chung và không nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Việt S vắng mặt trong toàn bộ quá trình Tòa án giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay mà không có bất ký văn bản nào thể hiện ý kiến hay yêu cầu của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đã phát biểu ý kiến như sau: Về tố tụng: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Thị Ngọc T đối với ông Nguyễn Việt S.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Nguyễn Thị Ngọc T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Việt S. Căn cứ vào Phiếu trả lời xác minh ngày 09/4/2021 do Công an thị trấn Tân T1, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp thì ông Nguyễn Việt S hiện tại thực tế cư trú tại địa chỉ D5/18 khu phố 4, thị trấn Tân T1, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự:

+ Ông Nguyễn Việt S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Việt S.

+ Bà Nguyễn Thị Ngọc T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên căn cứ theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Ngọc T.

[3] Về các yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ theo Giấy chứng nhận kết hôn số 130, quyển số II/2012 do Ủy ban nhân dân xã Trường X, huyện Thới L, Thành phố Cần Thơ cấp ngày 27/7/2012 thì có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Ngọc T trình bày: Bà và ông Nguyễn Việt S chung sống với nhau từ năm 2012, có tổ chức đám cưới, do tự tìm hiểu và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 130, quyển số II/2012 vào ngày 27/7/2012 tại Ủy ban nhân dân xã Trường X, huyện Thới L, Thành phố Cần Thơ. Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc, không có gì xảy ra. Đến khoảng năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, tính tình không còn hòa hợp. Hạnh phúc vợ chồng không còn dù bà T đã cố gắng hàn gắn. Bà T và ông S đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, nay bà Nguyễn Thị Ngọc T yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Việt S.

Hiện nay, bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S mỗi người sống mỗi nơi không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, cả hai đã ly thân hơn 05 năm nay. Mục đích hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S đã không còn, bà Nguyễn Thị Ngọc T không muốn chung sống với ông Nguyễn Việt S nữa.

Căn cứ vào Công văn số 1212/UBND ngày 04/5/2021 của Ủy ban nhân dân xã An P, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh về việc trả lời xác minh tình trạng hôn nhân và gia đình của bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S thì nội dung xác minh ghi như sau: “Trong quá trình sinh sống tại địa phương, Ủy ban nhân dân xã không tiếp nhận được đơn yêu cầu hòa giải nên không biết được những thông tin trên giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S”.

Ông Nguyễn Việt S dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản thể hiện yêu cầu của nguyên đơn gồm: Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập đương sự nhiều lần nhưng vẫn không đến Tòa để giải quyết vụ án, cũng không có bất kỳ văn bản nào thể hiện ý kiến hay yêu cầu của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Mặt khác, ông Nguyễn Việt S cũng không thể hiện thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà Nguyễn Thị Ngọc T. Như vậy, ông Nguyễn Việt S đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình, nên ông Nguyễn Việt S phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự.

Do đó, Hội đồng xét xử xét nhận thấy việc bà Nguyễn Thị Ngọc T yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Việt S là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình. Từ các nhận định trên và xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Ngọc T đối với ông Nguyễn Việt S.

[3.2] Về con chung:

Căn cứ lời khai của bà Nguyễn Thị Ngọc T thì: Quá trình chung sống, bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S có 02 con chung tên là Nguyễn Bình Nh (nữ), sinh ngày 17/02/2013 và Nguyễn Bình Như M (nữ), sinh ngày 14/7/2015. Khi ly hôn, bà Nguyễn Thị Ngọc T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung vì các trẻ đã sống cùng với bà Nguyễn Thị Ngọc T từ nhỏ, kể cả trong thời gian bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S sống ly thân.

Mặt khác, căn cứ Biên bản ghi nhận ý kiến trẻ ngày 09/4/2021 và Biên bản ghi nhận ý kiến trẻ ngày 14/7/2022 thì trẻ Nguyễn Bình Nh (nữ), sinh ngày 17/02/2013 và Nguyễn Bình Như M (nữ), sinh ngày 14/7/2015 có nguyện vọng được sống chung với mẹ là bà Nguyễn Thị Ngọc T vì ông Nguyễn Việt S không thường xuyên thăm nom chăm sóc các con, cũng không phụ giúp bà Nguyễn Thị Ngọc T nuôi con trong khoảng thời gian hai vợ chồng sống ly thân.

Tại phiên tòa ông Nguyễn Việt S vắng mặt, không có bất kỳ văn bản nào trình bày nguyện vọng về con chung khi ly hôn.

Xét thấy nguyện vọng của bà Nguyễn Thị Ngọc T về con chung là phù hợp và cũng thuận lợi nhất cho 02 trẻ vì bà Nguyễn Thị Ngọc T là mẹ lại gần gũi và chăm sóc các con từ nhỏ nên bà Nguyễn Thị Ngọc T có đầy đủ điều kiện chăm sóc con chung tốt hơn ông Nguyễn Việt S.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Ngọc T về con chung: Giao trẻ Nguyễn Bình Nh (nữ), sinh ngày 17/02/2013 và Nguyễn Bình Như M (nữ), sinh ngày 14/7/2015 cho bà Nguyễn Thị Ngọc T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Ngọc T về việc không yêu cầu ông Nguyễn Việt S cấp dưỡng nuôi con.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Ngọc T xác định bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S chung sống không có tài sản chung, không nợ ai.

Ông Nguyễn Việt S vắng mặt trong toàn bộ quá trình Tòa án giải quyết vụ án và tại Tòa hôm nay, không có văn bản thể hiện ý kiến của mình về vấn đề tài sản chung và nợ chung giữ bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S.

Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến vấn đề tài sản chung và nợ chung giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S. Nếu sau này các bên đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[4] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án thì bà Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu án phí sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91, khoản 4 Điều 147; Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Ngọc T đối với ông Nguyễn Việt S.

Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S chấm dứt. Giấy chứng nhận kết hôn số 130, quyển số II/2012 do Ủy ban nhân dân xã Trường X, huyện Thới L, Thành phố Cần Thơ cấp ngày 27/7/2012 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung:

Giao con chung tên là Nguyễn Bình Nh (nữ), sinh ngày 17/02/2013 và Nguyễn Bình Như M (nữ), sinh ngày 14/7/2015 cho bà Nguyễn Thị Ngọc T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Nguyễn Việt S do bà Nguyễn Thị Ngọc T có khả năng và không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Ngọc T xác định bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S chung sống không có tài sản chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến vấn đề tài sản chung giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S. Nếu sau này các bên đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

4. Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị Ngọc T xác định bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S chung sống không nợ ai. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến vấn đề nợ chung giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S. Nếu sau này các bên đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

5. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp heo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0081141 ngày 17/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Thị Ngọc T đã nộp đủ án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Nguyễn Việt S có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

91
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 793/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:793/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về