Bản án về ly hôn số 59/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 59/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ LY HÔN

Trong ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 149/2022/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 63/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê H – sinh năm 197 Nơi cư trú: Thôn D, xã I, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Ông Nguyễn L – sinh năm 198 Nơi cư trú: Thôn D, xã I, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 22/02/2022, bản tự khai, biên bản về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải, nguyên đơn bà Lê H trình bày:

Bà và ông Nguyễn L tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2010, đến năm 2018 mới đi đăng ký kết hôn tại UBND xã I. Quá trình chung sống không hạnh phúc, thường xuyên kình cãi do ông L đánh đập bà nhiều lần, bà đã bỏ qua để cho ông L thay đổi nhưng nay bà không thể chịu đựng được nữa. Hơn nữa từ tháng 11/2021 bà và ông L không còn sống chung với nhau. Nay bà không còn tình cảm với ông L nên xin ly hôn.

Về con chung: Bà và ông L có một con chung tên Nguyễn Đ – sinh ngày 06/8/201 . Khi ly hôn bà xin nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà H không yêu cầu tòa giải quyết.

Về nợ chung: Bà H xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai.

Về án phí: Bà H tự nguyện chịu toàn bộ án phí trong vụ án này.

* Tại bản tự khai, biên bản về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải, bị đơn ông Nguyễn L trình bày:

Ông và bà Lê H tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2010, đến năm 2018 mới đi đăng ký kết hôn tại UBND xã I. Ông không đồng ý ly hôn vì còn thương yêu vợ con, ông mong muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con cái trưởng thành. Ông thừa nhận có hay nhậu nhẹt, lâu lâu vợ chồng kình cãi rồi ông có bạt tai vợ 1, 2 cái nhưng mâu thuẫn giữa vợ chồng không trầm trọng đến mức phải ly hôn.

Về con chung: Ông và bà H có một con chung tên Nguyễn Đ – sinh ngày 06/8/201 . Trường hợp tòa giải quyết ly hôn thì ông đồng ý giao con cho bà H nuôi và không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Ông L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông L xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến trình bày:

+ Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn, bị đơn từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án là đúng theo quy định.

Về thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án: Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

+ Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê H được ly hôn với ông Nguyễn L.

- Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Đ – sinh ngày 06/8/201 cho bà Lê H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Bà H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Ông L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con khi cần thiết cha, mẹ có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung hoặc khi có căn cứ theo điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Bà Lê H, ông Nguyễn L không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí: Bà Lê H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn L có hộ khẩu thường trú tại thôn D, xã I, thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hòa. Do vậy, căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 39; Điều 207 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Lê H yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn L và yêu cầu giải quyết nuôi con chung nên Hội đồng xét xử xác định đây là ly hôn, tranh chấp về nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử xét thấy bà Lê H và ông Nguyễn L tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã I theo Giấy chứng nhận kết hôn số 113 ngày 22/11/2018. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà Lê H và ông Nguyễn L là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu của đương sự, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, biên bản xác minh và được thẩm tra công khai tại phiên tòa nhận thấy:

Xét thấy trong quá trình chung sống giữa bà H và ông L thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng không ai còn quan tâm đến ai, tình cảm vợ chồng hiện nay không còn. Hơn nữa, bà H và ông L không còn chung sống với nhau từ tháng 11/2021. Hội đồng xét xử xét thấy: xuất phát từ những bất đồng quan điểm trong cuộc sống chung dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt dần, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà H là phù hợp. Trên cơ sở xem xét quan điểm trình bày của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là phù hợp với Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung: Bà Lê H và ông Nguyễn L có một con chung là cháu Nguyễn Đ – sinh ngày 06/8/201 ; bà H yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy: Việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy: Trong vụ án này, từ khi mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, bà H là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và hiện nay cháu Đ đang đi học, sống ổn định cùng với mẹ và cháu Đ cũng có nguyện vọng ở với mẹ. Do đó, quan điểm trình bày của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là phù hợp với Hội đồng xét xử nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn giao cháu Đ cho bà H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành; bà H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung; ông L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở theo quy định tại Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.3] Về tài sản chung: Bà Lê H và ông Nguyễn L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[4] Về án phí: Bà Lê H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 232, Điều 264, Điều 266, Điều 269, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Lê H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê H được ly hôn ông Nguyễn L.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Đ – sinh ngày 06/8/201 cho bà Lê H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến trưởng thành. Bà H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Ông L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con khi cần thiết cha, mẹ có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung hoặc khi có căn cứ theo điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.

3. Về tài sản chung: Bà Lê H và ông Nguyễn L đều không yêu cầu nên không xét.

4. Về án phí: Bà Lê H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2021/0004546 ngày 01 tháng 3 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa. Bà H đã nộp đủ án phí.

Quy định chung: Bn án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 59/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:59/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về