Bản án về ly hôn số 27/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 27/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 06 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 22/2022/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2022 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 18/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Thị Thúy D, sinh năm 1998. (Chị D có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Nơi cư trú: 58/4 ấp TA, xã TH, huyện TP, tỉnh BT.

2. Bị đơn: Anh Đặng Vũ K, sinh năm 1986 (Vắng mặt không có lí do).

Nơi cư trú: ấp 118/3 ấp TH, xã TH, huyện TP, tỉnh BT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/01/2022, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ nguyên đơn chị Phan Thị Thúy D trình bày:

Vào năm 2020 tôi và anh Đặng Vũ K có quen biết rồi tiến tới hôn nhân, chúng tôi đi đăng ký kết hôn tại UBND xã TH, ngày 02/3/2021. Do không được gia đình chấp nhận nên tôi và anh K không có tổ chức đám cưới. Cuộc sống hôn nhân giữa tôi và anh K không có hạnh phúc là do bất đồng quan điểm sống nên thương xuyên cãi nhau, có lần anh K đánh tôi. Nguyên nhân dẫn đến bất đồng quan điểm sống là do anh K ham chơi cờ bạc không chí thú làm ăn tôi nhiều lần khuyên nhũ nhưng anh K không thay đổi hiện nay tình cảm vợ chồng không còn nên tôi yêu cầu ly hôn anh K. Khi sống chung chúng tôi không có con chung nên không yêu cầu giải quyết. Về tài sản chung không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung không có, tôi không yêu cầu giải quyết Trong quá trình tố tụng anh Đặng Vũ K vắng mặt nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên Tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn Đặng Vũ K không đến Tòa để tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 227, 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Đề nghị:

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phan Thị Thúy D. Chị D không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên đề nghị không xem xét.

Về con chung: Chị D trình bày không có con chung nên không xem xét.

Về tài sản chung: Chị D trình bày không có tài sản chung nên không xem xét.

Về nợ chung: Chị D trình bày không có nợ chung nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Căn cứ vào đơn xin ly hôn của chị Phan Thị Thúy D yêu cầu xin ly hôn với anh Đặng Vũ K nên căn cứ vào điều 51 Luật hôn nhân gia đình xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn”.

[2] Theo xác nhận của Công an xã TH đã xác nhận anh Đặng Vũ K hiện đang cư trú tại xã TH, huyện TP, tỉnh BT. Căn cứ vào Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

[3] Xét việc anh Đặng Vũ K vắng mặt tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy: Anh K đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng anh K vẫn không có mặt. Việc vắng mặt không rõ lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt anh K theo quy định Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chị D có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Duy theo qui định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về hôn nhân: Chị Phan Thị Thúy D và anh Đặng Vũ K kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Cả hai đều có đủ điều kiện kết hôn và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Xét yêu cầu ly hôn của chị D Hội đồng xét xử xét thấy: Sau khi kết hôn chị D và anh K có thời gian ngắn sống chung hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẩn, chị D cho rằng do hai bên không được gia đình chấp nhận nên không có tổ chức đám cưới và bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi nhau, có lần anh K đánh chị D. Nguyên nhân dẫn đến bất đồng quan điểm sống là do anh K ham chơi cờ bạc không chí thú làm ăn chị D nhiều lần khuyên nhũ nhưng anh K không thay đổi bản thân. Theo biên bản xác minh ngày 04/5/2022 của Tòa án đối với bà Phạm Thị T là mẹ ruột anh K thì bà T cho biết là giữa chị D và anh K có kết hôn nhưng có tổ chức đám cưới do gia đinh bên chị D không đồng ý. Trước đây khi sống chung chị D và anh K có mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, hiện tại chị D và anh K đã sống ly thân. Nhiều lần bà nhận được Thông báo, giấy triệu tập của Tòa án tống đạt cho anh K. Bà có chuyển giao lại cho anh K đầy đủ, đúng thời gian quy định như đã cam kết nhưng anh K không đến Tòa án theo nội dung Tòa án đã thông báo và triệu tập. Điều đó chứng tỏ anh K không có nguyện vọng hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị D, không muốn vợ chồng hòa giải để đoàn tụ với nhau. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị D và anh K đã mâu thuẫn đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị D yêu cầu được ly hôn với anh K là có căn cứ. Phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Chị D không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về con chung: Chị D trình bày không có con chung, anh K không ý kiến về con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung: Chị D trình bày không có tài sản chung, anh K không ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về nợ chung: Chị D trình bày không có nợ chung, anh K không ý kiến về nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Chị D phải nộp án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[9] Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, Điều 147, 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phan Thị Thúy D. Chị D được ly hôn với anh Đặng Vũ K.

Chị D không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về con chung: Chị D trình bày không có con chung, anh K không ý kiến về con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về tài sản chung: Chị D trình bày không có tài sản chung, anh K không ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về nợ chung: Chị D trình bày không có nợ chung, anh K không ý kiến về nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí hôn nhân và gia đình: Chị Phan Thị Thúy D phải nộp số tiền là 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004372 ngày 26 tháng 01 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

6. Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 27/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:27/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về