Bản án về ly hôn số 1292/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1292/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 21 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 683/2021/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1530/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Mã Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1984 Thường trú: cư xá T, Phường H, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Cư trú: cư xá T, Phường H, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Lê Quốc T, sinh năm 1983 Địa chỉ: chung cư M, Đường M, Khu phố B, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Nguyên đơn bà Mã Nguyễn Ngọc T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông Lê Quốc T tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 27, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 12/3/2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại căn hộ số 7.11, chung cư Mỹ An, Đường số 19, phường Hiệp Bình Chánh, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu, vợ chồng chung sống rất hạnh phúc. Đến năm 2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông T ham chơi bài bạc, không chăm lo gia đình, nhậu say về đánh vợ. Gia đình hai bên và bà T đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng ông T không thay đổi. Đầu năm 2018, bà T chuyển về nhà cha mẹ ruột sống. Vợ chồng ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Trong thời gian ly thân, đôi bên không tạo điều kiện hàn gắn gia đình. Nay bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn, không còn khả năng hàn gắn quan hệ vợ chồng nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông T.

- Về con chung: Bà T và ông T có 02 con chung tên Lê Tiến Đ, sinh ngày 01/02/2007 và Lê Đăng K, sinh ngày 29/9/2008. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, yêu cầu ông Lê Quốc T cấp dưỡng nuôi mỗi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi 02 con chung lần lượt đủ 18 tuổi;

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

2. Bị đơn ông Lê Quốc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng giải quyết vụ án nhưng vắng mặt không rõ lý do.

3. Tại phiên tòa:

Bà Mã Nguyễn Ngọc T có đơn xin vắng mặt trong phiên tòa xét xử vụ án và xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Về quan hệ hôn nhân: Bà T yêu cầu được ly hôn với ông T; Về con chung: Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Lê Tiến Đ và Lê Đăng K, yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi mỗi con chung mỗi tháng 2.000.000 (Hai triệu) đồng cho đến khi 02 con chung lần lượt đủ 18 tuổi; Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Ông Lê Quốc T đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do.

4. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

4.1 Về tố tụng: Tòa án đã tiến hành thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, có vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, đồng thời, quyền và nghĩa vụ của đương sự được tôn trọng và bảo đảm đúng quy định của pháp luật.

4.2 Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cùng lời khai của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Mã Nguyễn Ngọc T yêu cầu được ly hôn với ông Lê Quốc T. Theo Kết quả xác minh của Công an phường Hiệp Bình Chánh, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị đơn ông T đang cư trú tại chung cư M, Đường M, Khu phố B, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì quan hệ tranh chấp là ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

[1.2] Nguyên đơn bà T có đơn xin được vắng mặt trong phiên tòa xét xử vụ án. Căn cứ Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[1.3] Bị đơn ông T đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu của bà T, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Mã Nguyễn Ngọc T và ông Lê Quốc T tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 12/3/2007 và được Ủy ban nhân dân Phường 27, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 17. Do đó, căn cứ Điều 9, Điều 11 và Điều 12 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T là hôn nhân hợp pháp.

Căn cứ Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

Xét thấy, trong quá trình Tòa án thu thập chứng cứ, bà T cương quyết yêu cầu được ly hôn với ông T vì tình cảm vợ chồng đã không còn, vợ chồng không có sự quan tâm, chăm sóc, yêu thương lẫn nhau. Đồng thời, theo Văn bản số 42/UBND ngày 14/01/2022 của Ủy ban nhân dân phường Hiệp Bình Chánh, thành phố Thủ Đức thì bà T và ông T đã không còn sống chung với nhau. Cuộc sống vợ chồng giữa hai bên đã không còn tồn tại trên thực tế. Như vậy, mâu thuẫn giữa bà T và ông T đã thật sự trầm trọng, khả năng hàn gắn đoàn tụ gia đình không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

[2.2] Về con chung:

Căn cứ Trích lục khai sinh số 182/TLKS-BS ngày 16/4/2019, số 183/TLKS-BS ngày 16/4/2019 của Ủy ban nhân dân phường 27, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh thì bà T và ông T có 02 con chung tên Lê Tiến Đ, sinh ngày 01/02/2007 và Lê Đăng K, sinh ngày 29/9/2008.

Xét, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và 02 cháu Lê Tiến Đ, Lê Đăng K đều có nguyện vọng được sống chung với bà T. Do đó, căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và cũng theo nguyện vọng của các con, Hội đồng xét xử quyết định giao 02 con chung tên Lê Tiến Đ và Lê Đăng K cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng.

- Về mức cấp dưỡng nuôi con:

Căn cứ Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, ông T không trực tiếp nuôi 02 con chung nên có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 02 con theo quy định của pháp luật. Bà T yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi mỗi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi 02 con chung lần lượt đủ 18 tuổi.

Căn cứ Khoản 1 Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, mức cấp dưỡng nuôi mỗi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng là đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của 02 con chung. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận mức cấp dưỡng mà bà T đưa ra, ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi 02 con chung lần lượt đủ 18 tuổi.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở.

[2.4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà T phải chịu án phí ly hôn và ông T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 186, Khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 9, Điều 11 và Điều 12 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000;

- Căn cứ Điều 19, 51, 53, 54, 56, 57, 58, 59, 81, 82, 83, 84, 116, 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Luật Phí và Lệ phí năm 2015;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mã Nguyễn Ngọc T.

1.1 Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Mã Nguyễn Ngọc T và ông Lê Quốc T.

1.2 Về con chung: Bà Mã Nguyễn Ngọc T và ông Lê Quốc T có 02 con chung tên Lê Tiến Đ, sinh ngày 01/02/2007 và Lê Đăng K, sinh ngày 29/9/2008.

Giao 02 con chung tên Lê Tiến Đ và Lê Đăng K cho bà Mã Nguyễn Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng.

Ông Lê Quốc T cấp dưỡng nuôi con Lê Tiến Đ và Lê Đăng K, mỗi con chung mỗi tháng 2.000.000 (Hai triệu) đồng cho đến khi Lê Tiến Đ và Lê Đăng K lần lượt đủ 18 tuổi.

Kể từ khi bà Mã Nguyễn Ngọc T có đơn yêu cầu thi hành án về số tiền cấp dưỡng, nếu ông Lê Quốc T chưa thi hành, thì hàng tháng ông Lê Quốc T còn phải chịu thêm tiền lãi đối với số tiền cấp dưỡng chậm thực hiện tương ứng với thời gian chậm thực hiện theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi khi có lý do chính đáng.

1.3 Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự xác định không có.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Mã Nguyễn Ngọc T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0059028 ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bà Mã Nguyễn Ngọc T đã nộp đủ án phí.

Ông Lê Quốc T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Mã Nguyễn Ngọc T và ông Lê Quốc T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 1292/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:1292/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về