Bản án về ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 368/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 11 năm 2021, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 368/2022/QĐXX-ST ngày 10 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Lê Thị Băng M, sinh năm 1992;

Địa chỉ: Phòng 907 Chung cư T, phường M, quận C, thành phố Đà Nẵng. (Có mặt)

* Bị đơn: Ông Đỗ Thanh T, sinh năm 1990;

Địa chỉ: K63/01 đường T, phường C, quận K, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện, trong bản tự khai, nguyên đơn là bà Lê Thị Băng M trình bày:

Tôi và ông Đỗ Thanh T kết hôn năm 2017, đăng ký kết hôn tại UBND phường Q, quận T, thành phố Đà Nẵng. Quá trình chung sống, đến đầu năm 2021 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và kéo dài cho đến nay. Ông T không có trách nhiệm với gia đình, vợ con. Vợ chồng bất đồng quan điểm sống và không phù hợp nhau về tính cách. Đến nay, mâu thuẫn vẫn không khắc phục được. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc gia đình không có nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn ông T.

* Về con chung: Chúng tôi có 01 con chung là Đỗ Hiếu B, sinh ngày 29/5/2017. Ly hôn tôi yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

* Về tài sản chung, nợ chung: Tôi xác định không có.

Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để ông T tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng ông T không có mặt nên không có ý kiến trong hồ sơ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng đã xác định: Những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn không chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự. Đối với nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để cho bà M được ly hôn với ông T. Về con chung, giao con chung cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng, ông T không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Tranh chấp giữa bà Lê Thị Băng M và ông Đỗ Thanh T là tranh chấp về hôn nhân gia đình, bị đơn có địa chỉ cư trú ở địa bàn quận Thanh Khê nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân dự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, ông T là bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt ông T.

[3] Về nội dung vụ án:

* Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Băng M và ông Đỗ Thanh T kết hôn năm 2017, đăng ký kết hôn tại UBND phường Q, quận T, thành phố Đà Nẵng, đây là hôn nhân tự nguyện và đảm bảo các quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên được thừa nhận và bảo vệ.

Trong quá trình chung sống, bà Lê Thị Băng M và ông Đỗ Thanh T đã phát sinh mâu thuẫn. Bà M xác định nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, ông T không có trách nhiệm với gia đình, vợ con. Mâu thuẫn kéo dài đến nay vẫn không khắc phục được. Hội đồng xét xử thấy rằng, cuộc sống vợ chồng bà M ông T thực sự đã phát sinh mâu thuẫn và mâu thuẫn đã trầm trọng kéo dài đến nay. Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã làm các thủ tục cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho ông T nhưng ông T vẫn không đến Tòa án để giải quyết việc bà M yêu cầu ly hôn và không gửi cho Tòa án ý kiến của mình chứng tỏ ông T không có thiện chí trong việc hàn gắn hạnh phúc gia đình. Xét mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài, hạnh phúc gia đình không có, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M về việc ly hôn với ông T là phù hợp.

* Về con chung: Vợ chồng bà M ông T có 01 con chung là Đỗ Hiếu B, sinh ngày 29/5/2017. Ly hôn, bà M yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay con chung đang ở với mẹ nên tiếp tục giao cho mẹ nuôi dưỡng là phù hợp. bà M không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

* Về tài sản chung, nợ chung: Bà M xác định không có nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[4] Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà M phải chịu 300.000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Băng M về việc “Ly hôn” đối với ông Đỗ Thanh T.

Xử

* Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Băng M được ly hôn với ông Đỗ Thanh T.

* Về con chung: Giao con chung là Đỗ Hiếu B, sinh ngày 29/5/2017 cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên (18 tuổi). Ông T không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Bên không nuôi con vẫn có mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật.

* Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

3. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 đồng bà Lê Thị Băng M phải chịu, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà M đã nộp theo biên lai thu số 2359 ngày 15.11.2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Bà M đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Án xử công khai, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về