Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 26/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHĨA LỘ - TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 26/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 29 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 126/2022/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2022 về tranh chấp Ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2022/QĐXX - ST ngày 30 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 19/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2022; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1995. Địa chỉ: Bản C, xã S, thị xã Ngh, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Trung H, sinh năm 1994. Địa chỉ: Tổ 6, phường Tr, thị xã Ngh, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/7/2022 chị Nguyễn Thị Tr trình bày: Chị kết hôn với anh Nguyễn Trung H là hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Sơn A ngày 25/01/2018. Sau khi kết hôn anh chị sống tại tổ 6, phường Tr, thị xã Nghĩa Lộ. Quá trình chung sống anh chị không có hạnh phúc, thường sảy ra mâu thuẫn, cuộc sống và tình cảm vợ chồng không thể tiếp tục nên anh H đã đồng ý cho chị làm đơn ly hôn. Vì vậy chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị và anh H có 02 con là Nguyễn Tùng A, sinh ngày 26/10/2014 và Nguyễn Ngọc Tr, sinh ngày 07/01/2018, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu A còn cháu Tr sẽ do anh H nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản chung, chị Tr không đề nghị Tòa án giải quyết.

Để chứng minh cho yêu cầu của mình chị Tr đã nộp cho Tòa án chứng cứ: Giấy chứng nhận kết hôn giữa chị và anh H, bản sao CMND của chị và anh H, sổ hộ khẩu gia đình chị và anh H; giấy khai sinh của các con chung.

Tại bản khai và biên bản lấy lời khai tại Tòa án chị Tr khai bổ sung: Trong quá trình chung sống với anh H vợ chồng chị thường xuyên cãi vã, sung đột có lần đánh nhau. Nguyên nhân bắt nguồn từ việc lo cho kinh tế gia đình chủ yếu do chị còn anh H không tu chí làm ăn, ham chơi, nghiện điện tử. Chị đã tham gia nhắc nhở nhưng anh H không nghe, kể từ năm 2020 mâu thuẫn gia đình trầm trọng hơn trước. Chị và anh H đã sống ly thân với nhau từ tháng 9/2020, sau khi ly thân một tháng anh H công khai ngoại tình và không có ý định gắn kết tình cảm vợ chồng. Từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, anh chị đi làm xa nên không có sự quan tâm lẫn nhau, mặc dù có được sự động viên hòa giải của gia đình nhưng mâu thuẫn không cải thiện được. Chị Tr xác định không còn tình cảm với anh H nữa nên đề nghị tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H. Sau khi chị làm đơn ly hôn chị có thông báo cho gia đình và anh H biết, yêu cầu anh H về để giải quyết việc ly hôn nhưng anh H nói không về và bảo giải quyết vắng mặt anh. Về con chung chị thay đổi ý kiến là xin được trực tiếp nuôi cả hai con Nguyễn Tùng A và Nguyễn Ngọc Tr do anh H không có ý kiến gì trong quá trình chị làm thủ tục ly hôn, chị không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Tài sản chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án lấy lời khai của cháu Nguyễn Tùng A theo quy định, cháu thể hiện mong muốn được ở với mẹ sau khi bố mẹ ly hôn.

Quá trình tòa án thụ lý và giải quyết vụ án đã thông báo cho anh H được biết về yêu cầu xin ly hôn của chị Tr. Tòa án đã tiến hành triệu tập anh H đến Tòa án để trình bày ý kiến, quan điểm của mình về vụ án tuy nhiên anh H không có mặt mặc dù biết được sự việc.

Tòa án xác minh tại địa phương nơi anh H và chị Tr có thời gian sinh sống được biết: Anh H và chị Tr sau khi kết hôn có thời gian ngắn sinh sống tại tổ 6, phường Tr cùng với bà Nguyễn Thị B là mẹ đẻ anh H sau đó thì chuyển ra ở riêng. Quá trình anh chị chung sống có mâu thuẫn do anh chị làm ăn không thuận lợi dẫn đến ảnh hưởng kinh tế gia đình. Anh H hay chơi game không quan tâm đến các con trong khi các con còn nhỏ, hiện nay anh Hoàng đang đi làm ăn xa nhà.

Tiến hành xác minh với gia đình anh H được bà Nguyễn Thị B là mẹ anh H cho biết: Anh chị H Tr sinh sống với bà một thời gian sau đó thì chuyển ra ở riêng, trong cuộc sống anh chị có phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã do anh H mải chơi game. Anh chị đã sống ly thân với nhau khoảng 3 năm nay, anh H ở với bà còn chị Tr ở bên ngoại và đi làm xa. Khi chị Tr làm đơn ly hôn cũng như sau khi nhận được giấy báo của Tòa án bà đã thông báo cho anh H biết sự việc nhưng anh H có lần không phản hồi gì, có lần nói là sẽ không về giải quyết nên việc chị Tr làm đơn xin ly hôn bà đề nghị tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Tòa án mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh H không đến tham gia mặc dù có được thông báo hợp lệ. Chị Tr có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải và yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết việc ly hôn, nuôi con chung với anh H.

Tại phiên tòa mở lần thứ nhất, anh H vắng mặt không có lý do nên Tòa án hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa mở lần thứ hai anh H vẫn vắng mặt không lý do, chị Tr có mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H do xác định mâu thuẫn đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn nữa, khi chị làm đơn đều thông báo cho anh H nhưng anh H cố ý vắng mặt là gây khó khăn cho chị. HĐXX công bố những lời khai và biên bản xác minh có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghĩa Lộ có quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng. Chị Tr đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Anh Nguyễn Trung H vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án, phiên tòa mà không có lý do là chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX xử cho chị Nguyễn Thị Tr được ly hôn anh Nguyễn Trung H. Về con chung, xử giao con Nguyễn Tùng A, sinh ngày 26/10/2014 và Nguyễn Ngọc Tr, sinh ngày 07/01/2018 cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Tr khởi kiện về ly hôn, nuôi con chung với anh Nguyễn Trung H có hộ khẩu thường trú tại Tổ 6, phường Tr, thị xã Nghĩa Lộ. Theo quy định tại Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ, quan hệ pháp luật tranh chấp là: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung. Quá trình giải quyết vụ án anh H không có mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không có lý do, tòa án căn cứ vào quy định tại Điều 227 và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Xét yêu cầu xin ly hôn:

Chị Nguyễn Thị Tr và anh Nguyễn Trung H kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, anh chị có đi đăng ký kết hôn tại UBND xã Sơn A, huyện Văn Chấn (nay là thị xã Nghĩa Lộ) vào ngày 25/01/2018. Theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân gia đình thì quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Theo chị Tr cuộc sống chung của anh chị sau khi kết hôn có phát sinh mâu thuẫn do khó khăn về kinh tế, anh H ham chơi game, không tu chí làm ăn để cùng chị lo cho gia đình mặc dù các con chung còn nhỏ. Chị và gia đình đã tham gia khuyên bảo nhưng anh H không thay đổi mà ngày càng ham chơi hơn, chính vì vậy nên chị và anh H đã sống ly thân với nhau từ năm 2020. Quá trình ly thân anh H công khai quan hệ ngoại tình, không có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng. Anh chị không ai quan tâm và chia sẻ với nhau nên tình cảm vợ chồng dần dần không còn dành cho nhau nữa, đến nay đã hết. Lời khai của chị Tr hoàn toàn phù hợp với sự xác nhận của tổ dân phố nơi anh chị chung sống và gia đình anh H cùng xác định anh chị có mâu thuẫn, nguyên nhân chính là từ kinh tế khó khăn, anh H chơi bời không cùng chị Tr lo cho gia đình nên sảy ra sung đột, cãi nhau; Anh chị đã sống ly thân với nhau không cùng chăm lo cho gia đình chung. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo cho anh H biết và tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định, thông qua gia đình, qua tin nhắn giữa chị Tr và anh H đều thể hiện được việc anh H biết chị Tr làm đơn ly hôn và yêu cầu của Tòa án nhưng anh H cố tình không đến tòa án để trình bày quan điểm của mình mà không có lý do chính đáng. Như vậy anh H đã tự mình từ bỏ quyền cũng như không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Chị Tr đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H vì tình cảm vợ chồng đã hết, cả hai không còn quan tâm gì đến nhau, mỗi người tự lo cho cuộc sống của riêng mình không phụ thuộc vào ai.

Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống hôn nhân của anh chị Tr H thực tế có mâu thuẫn, vợ chồng không cùng nhau tạo dựng cuộc sống chung, một bên có quan hệ ngoại tình nên tình cảm không còn, anh chị đã có thời gian dài sống ly thân với nhau. Do vậy đời sống hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc không đạt được, vì vậy nên việc chị Tr làm đơn xin ly hôn với anh H là có cơ sở. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình thì yêu cầu xin ly hôn của chị Tr được chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Tr và anh H có hai con là Nguyễn Tùng A, sinh ngày 26/10/2014 và Nguyễn Ngọc Tr, sinh ngày 07/01/2018. Hội đồng xét xử thấy con chung của anh chị hiện nay đang ở cùng với chị Tr và được sự giúp đỡ chăm sóc của gia đình nên có cuộc sống và học tập ổn định, các cháu đều được nuôi dưỡng và phát triển lành mạnh. Cháu Tùng A có nguyện vọng được sống cùng với mẹ sau khi bố mẹ ly hôn. Xét về nguyên nhân mâu thuẫn của gia đình phần lớn là do anh H không tu chí làm ăn, chăm lo cho gia đình, vợ con nên các con chủ yếu do chị Tr chăm sóc cùng với ông bà hai bên. Quá trình giải quyết vụ án anh H cũng không có ý kiến gì về con chung mặc dù biết chị Tr đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con. Với những phân tích trên HĐXX thấy yêu cầu xin được nuôi cả hai con chung của chị Tr là chính đáng và hợp lý. Vì vậy cần giao cả hai con chung cho chị Tr được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục để đảm bảo cho các con có cuộc sống ổn định, phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần. Chị Tr không yêu cầu anh Hoàng cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản: Chị Tr không đề nghị tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tr phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tr. Xử cho chị Nguyễn Thị Tr được ly hôn anh Nguyễn Trung H.

2. Xử giao các con Nguyễn Tùng A, sinh ngày 26/10/2014 và Nguyễn Ngọc Tr, sinh ngày 07/01/2018 cho chị Nguyễn Thị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Nguyễn Trung H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn anh H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở quyền thăm nom con chung.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Tr phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Tr đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu số AA/2021/0001215 ngày 14/7/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Nghĩa Lộ. Chị Tr đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Tr có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Nguyễn Trung H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 26/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Nghĩa Lộ - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về