Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 25 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 51/2022/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2022/QĐXX-ST ngày 20 tháng 6 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 51 ngày 04/7/2022 giữa:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kiều O ; sinh năm: 1984; Trú tại: 119 N, phường T, quận S, Đà Nẵng. Chỗ ở hiện nay: Xóm 1, Thôn T, xã Đ, huyện V, Khánh Hòa. Có mặt

Bị đơn: Ông Mai Đăng P : sinh năm: 1986; Trú tại: 119 N, tổ 21 phường T, quận S, Đà Nẵng. vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/3/2022, bản trình bày ngày 13/4/2022 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kiều O trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kiều O kết hôn với ông Mai Văn P vào năm 2017, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T , quận S, thành phố Đà Nẵng. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại tổ 21 phường T , quận S, Đà Nẵng. Hai bên chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là ông P ham mê bài bạc, banh bóng gây ra nợ nần, vợ chồng không có sự chia sẻ trong cuộc sống, ít quan tâm đến nhau nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Mâu thuẫn được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Hai bên sống ly thân từ năm 2021 đến nay, bà và con trai chuyển vào Khánh Hòa sinh sống, không ai quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay về tình cảm bà O xác định không còn yêu thường ông P nữa, nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông P .

- Về con chung: bà O xác định có 01 con chung là Mai Đăng K – sinh ngày: 10/12/2017. Ly hôn nguyện vọng của bà O được trực tiếp nuôi con đến khi con đủ 18 tuổi. Bà không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: bà O xác định không có.

- Về nợ chung: Bà O xác định không có.

Quá trình giải quyết vụ án, ông Mai Đăng P không có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, không tham gia hoà giải và cũng không tham gia phiên toà xét xử vụ án trên.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S phát biểu về sự tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và của các đương sự. Theo đó: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng pháp luật từ khâu thụ lý, hòa giải, thu thập chứng cứ và mở phiên tòa xét xử. Nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật tố tụng. Riêng bị đơn không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc không tuân thủ quy định của pháp luật.

Về nội dung: đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình. Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kiều O về việc ly hôn với ông Mai Đăng P .

Về con chung: bà O và ông P có 01 con chung là Mai Đăng K – sinh ngày:

10/12/2017. Giao con chung cho bà Nguyễn Thị Kiều O trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi, ông P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không đề cập giải quyết. Sau này các đương sự có tranh chấp, khởi kiện tại Tòa án thì sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Tòa án nhân dân quận S đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn ông Mai Đăng P nhưng tại phiên tòa hôm nay ông P vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của BLTTDS, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn Mai Đăng P Về nội dung vụ án:

[2] Ông Mai Đăng P và bà Nguyễn Thị Kiều O xây dựng gia đình với nhau vào năm 2017, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường T, quận S, Tp Đà Nẵng. Đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[3] Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông P thường xuyên ham mê cờ bạc, banh bóng gây ra nợ nần, ít quan tâm gia đình, không có sự chia sẻ với nhau trong cuộc sống nên hai bên thường xuyên xảy ra cãi vã. Từ năm 2021 đến nay hai bên sống ly thân, bà O và con trai chuyển về sinh sống ở Khánh Hòa, không ai quan tâm đến nhau. Quá trình tố tụng cũng như tại phiên toà sơ thẩm hôm nay bà O xác định không còn yêu thương ông P nữa nên xin được ly hôn. Còn bị đơn ông P mặc dù Toà án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông vẫn cố tình vắng mặt không có lý do.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của bà O thì thấy: Giữa ông P , bà O từ khi kết hôn năm 2017 đến nay hai bên chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn xảy ra ông bà đều không có giải pháp gì để hàn gắn và xây dựng lại gia đình, vợ chồng đã sống ly thân nhau từ 2021 đến nay. Đối với ông P có ý thức để mặc, không tham gia các phiên hòa giải cũng như tham gia tố tụng tại phiên tòa, điều này thể hiện ông P vừa coi thường pháp luật, vừa thờ ơ với việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, bản thân ông P không còn thiện chí xây dựng hạnh phúc gia đình với bà O . Vì vậy HĐXX có đủ cơ sở nhận định mâu thuẫn vợ chồng ông P , bà O đã trở nên trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt đựơc nên chấp nhận cho bà O được ly hôn ông P là hoàn toàn phù hợp với điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: ông P , bà O có 01 con chung là Mai Đăng K – sinh ngày: 10/12/2017. Tại phiên toà hôm nay bà O có nguyện vọng xin được nuôi con và không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu của bà O về việc xin được nuôi con chung thì thấy: Việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng đều phải dựa vào quyền lợi mọi mặt của con, đảm bảo được sự phát triển của con cả về thể chất lẫn tinh thần, từ khi mâu thuẫn vợ chồng xảy ra, bà O là người trực tiếp nuôi dưỡng con. Hiện tại cháu K và bà O đang sinh sống ở Khánh Hòa từ năm 2021 đến nay nên việc giao con cho bà O trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với tình hình thực tế, ổn định cuộc sống cũng như quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[6] Đối với việc cấp dưỡng nuôi con: bà Nguyễn Thị Kiều O không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết [6] Về tài sản chung: Bà O xác định không có. Ông Mai Đăng P không có ý kiến trong hồ sơ nên HĐXX không đề cập giải quyết. Sau này các đương sự có tranh chấp, khởi kiện tại Tòa án thì sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[7] Về nợ chung: Bà O xác định không có. Ông P không có ý kiến nên HĐXX không đề cập giải quyết. Sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[8] Đối với ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát nhân dân quận S, Tp Đà Nẵng thấy phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[9] Về án phí: Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000đồng bà O phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Kiều O đối với ông Mai Đăng P Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị Kiều O được ly hôn với ông Mai Đăng P (Do chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Kiều O đối với ông Mai Đăng P nên giấy chứng nhận kết hôn hôn số 196 do UBND phường T, quận S, TP Đà Nẵng cấp ngày 26/7/2017 không còn giá trị pháp lý)

2. Về con chung: Giao con chung Mai Đăng K – sinh ngày: 10/12/2017. cho bà O trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi. Ông P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Cả hai bên đương sự đều được thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật, không ai được ngăn cản. Khi cần thiết vì lợi ích con chung các bên đương sự có quyền xin thay đổi người nuôi con hoặc yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không đề cập giải quyết.

4. Về án phí: Án phí HNGĐ sơ thẩm: 300.000 đồng bà Nguyễn Thị Kiều O phải chịu được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà O đã nộp theo biên lai thu số 0003265 ngày 13 tháng 4 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận S, TP. Đà Nẵng.

Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết tại nơi thường trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các điều 6,7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về