Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 11/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHĨA LỘ, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 15 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 12/2022/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 02 năm 2022 về tranh chấp Ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXX - ST ngày 16 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 08/2022/QĐST- HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2022; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị Th, sinh năm 1999. Địa chỉ: Thôn N, xã Th, thị xã Ngh, tỉnh Yên Bái. Có đơn xin vắng mặt

2. Bị đơn: Anh Lò Văn Ph, sinh năm 1995. Địa chỉ: Tổ T, phường T, thị xã Ngh, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 09/02/2022 và bản tự khai chị Lò Thị Th trình bày: Chị và anh Lò Văn Ph kết hôn với nhau hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T ngày 31/7/2017. Sau khi kết hôn anh chị ở riêng tại tổ T, phường T, thị xã Ngh. Quá trình chung sống anh chị hòa thuận hạnh phúc được khoảng 02 năm sau đó phát sinh mâu thuẫn từ năm 2019, nguyên nhân là do anh Ph thường xuyên uống rượu say về đánh đập ngược đãi chị. Gia đình hai bên đã tham gia khuyên giải nhưng anh Ph không thay đổi tính nết, do vậy nên cuộc sống chung của anh chị không có hạnh phúc. Do không thể chịu được lối sống, tính cách của anh Ph nên chị đã đưa con bỏ về nhà ngoại sinh sống từ năm 2020 đến nay. Quá trình sống ly thân cả chị và anh Ph đều không quan tâm gì đến nhau, anh Ph chỉ đến đón con một lần vào dịp tết sau đó thì bỏ mặc con cho chị tự nuôi dưỡng, chăm sóc. Chị Th xác định giữa chị và anh Ph không còn tình cảm, yêu thương nhau nữa nên đề nghị tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Ph.

Về con chung: Chị và anh Ph có 01 con là Lò Bảo Ch, sinh ngày 10/4/2017, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Ph phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về tài sản: Chị Th không đề nghị Tòa án giải quyết.

Để chứng minh cho yêu cầu của mình chị Th đã nộp cho Tòa án chứng cứ: Bản sao trích lục kết hôn số 60/TLKH giữa anh Ph và chị Th, bản sao CMND của chị Th, Thông báo số định danh cá nhân của anh Ph, sổ hộ khẩu của chị và giấy khai sinh của cháu Lò Bảo Ch.

Tại bản tự khai ngày 21/02/2022 bị đơn anh Lò Văn Ph trình bày: Anh và chị Th đăng ký kết hôn ngày 31/7/2017, sau khi kết hôn anh chị sống tại tổ 1, phường T, thị xã Ngh. Đến khoảng năm 2019 thì anh chị phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng không có tiếng nói chung, đến đầu năm 2020 chị Th bỏ về nhà ngoại sống, giữa anh và chị Th không quan tâm gì đến nhau nữa nên nay chị Th xin ly hôn thì anh cũng đồng ý. Về con chung anh đồng ý để con là Lò Bảo Ch cho chị Th nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung anh không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tòa án xác minh tại địa phương nơi anh Ph và chị Th có thời gian sống chung được thôn bản cho biết: Quá trình chung sống tại tổ T gia đình anh chị có sảy ra mâu thuẫn, do anh Ph khi uống rượu say thì sảy ra tranh cãi, xô sát, có lần anh Ph đuổi chị Th ra khỏi nhà, ngoài ra anh chị còn ghen tuông, cãi vã do không tin tưởng nhau.

Chị Th đã về nhà bố mẹ đẻ sống ly thân với anh Ph khoảng 3 năm nay, nguyên nhân có thể là do anh Ph đánh chị Th.

Tòa án mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Ph không đến tham gia mặc dù có được thông báo hợp lệ. Chị Th có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải và yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết việc ly hôn, nuôi con chung với anh Ph.

Tại phiên tòa mở lần thứ nhất, anh Ph vắng mặt không có lý do nên Tòa án hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa mở lần thứ hai chị Th có đơn xin vắng mặt, anh Ph vẫn vắng mặt không lý do. HĐXX công bố những lời khai và biên bản xác minh có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghĩa Lộ có quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa. Chị Th đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Anh Lò Văn Ph vắng mặt tại các phiên hòa giải, phiên tòa mà không có lý do là chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX xử cho chị Lò Thị Th được ly hôn anh Lò Văn Ph. Về con chung, xử giao con Lò Bảo Ch cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn, anh Ph không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Lò Thị Th khởi kiện về ly hôn, nuôi con chung với anh Lò Văn Ph có hộ khẩu thường trú tại Tổ T, phường T, thị xã Nghĩa Lộ. Theo quy định tại Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ, quan hệ pháp luật tranh chấp là: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung. Quá trình giải quyết vụ án anh Ph không có mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không có lý do, tòa án căn cứ vào quy định tại Điều 227 và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về yêu cầu xin ly hôn:

Chị Lò Thị Th và anh Lò Văn Ph kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, anh chị có đi đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thị xã Nghĩa Lộ vào ngày 31/7/2017. Theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân gia đình thì quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống anh chị đều thừa nhận hòa thuận trong khoảng thời gian 02 năm, đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn dẫn đến xô sát cãi cọ nhau. Nguyên nhân là do anh Ph hay uống rượu không làm chủ được hành vi đã đánh đập chị Th, sự việc này có được thôn bản nơi anh chị cư trú xác nhận. Mặc dù chị Th và anh Ph không thống nhất với nhau về nguyên nhân mâu thuẫn, chị Th cho rằng do anh Ph ngược đãi còn anh Ph cho rằng do tính tình không hòa hợp, không có tiếng nói chung nhưng cả hai đều xác định vợ chồng đã không còn tình cảm gì với nhau nữa, không quan tâm chia sẻ và sống ly thân từ năm 2020 đến nay. Chị Th và anh Ph đều nhất trí ly hôn.

Như vậy, Hội đồng xét xử xác định cuộc sống chung của anh chị có mâu thuẫn, vợ chồng không còn tin tưởng yêu thương và tôn trọng nhau, không cùng nhau tạo dựng cuộc sống chung. Do vậy đời sống hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc không đạt được, vì vậy nên việc chị Th làm đơn xin ly hôn với anh Ph là có cơ sở. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình thì yêu cầu xin ly hôn của chị Th được chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Th và anh Ph có con chung là Lò Bảo Ch, sinh ngày 10/4/2017. Hội đồng xét xử thấy con chung của anh chị còn nhỏ cần cha mẹ quan tâm chăm sóc để cháu phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần. Cả chị Th và anh Ph đều có ý kiến là sau khi ly hôn con chung sẽ do chị Th trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, anh Ph không phải cấp dưỡng nuôi con chung, ý kiến của anh chị phù hợp với quy định, do vậy nên cần giao con chung cho chị Th nuôi dưỡng, về yêu cầu cấp dưỡng chị Th không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản: Chị Th và anh Ph đều không đề nghị tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 238, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lò Thị Th. Xử cho chị Lò Thị Th được ly hôn anh Lò Văn Ph.

2. Giao con Lò Bảo Ch, sinh ngày 10/4/2017 cho chị Lò Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Lò Văn Ph không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn anh Ph có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở quyền thăm nom con chung.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lò Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Th đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu số AA/2021/0001080 ngày 09/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Nghĩa Lộ. Chị Th đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Lò Thị Th và anh Lò Văn Ph có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 11/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Nghĩa Lộ - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về