Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 11/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/02/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 18 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 177/2021/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2021 về "ly hôn, nuôi con chung".

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Tô Thị T, sinh năm 2002 HKTT: ấp T, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở hiện nay: ấp C, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Anh Võ Văn Vũ L, sinh năm 2000 Địa chỉ: ấp T, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Tô Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Võ Văn Vũ L tự tìm hiểu nhau, sau đó tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện A cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 02/7/2020. Quá trình chung sống vợ chồng không hòa hợp nhau về suy nghĩ, tính cách, thường hay cãi nhau. Anh L ham chơi, không lo cho cuộc sống gia đình. Chị và anh L cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả, không thể cùng nhau xây dựng gia đình, chị và anh L đã ly thân từ tháng 3/2021 đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin ly hôn với anh L để mỗi người có cuộc sống riêng.

Về con chung: Chị và anh L có 01 người con chung là Võ Hoàng Minh L1, sinh ngày 11/01/2020. Sau khi sinh con gần 05 tháng thì chị và anh L đi làm thuê, nhờ ông bà nội chăm sóc. Khi ly thân thì chị và anh L đưa rước qua lại để cùng nhau nuôi dưỡng, tuy nhiên hơn 01 tháng nay thì anh L không cho chị rước con về nhà, anh L nói để chờ Tòa án giải quyết. Khi nộp đơn xin ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con, tuy nhiên anh L cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con. Vì không muốn việc tranh chấp nuôi con làm ảnh hưởng đến cuộc sống hiện nay của con nên chị tự nguyện giao con chung cho anh L được trực tiếp nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con cùng anh L . Chị yêu cầu có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật, không ai được quyền cản trở. Trường hợp anh L vi phạm nghĩa vụ nuôi con hoặc không còn đủ điều kiện nuôi con thì chị có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị và anh L không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

* Tại biên bản lấy lời khai ngày 08/11/2021 bị đơn anh Võ Văn Vũ L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Theo anh thì anh và chị T không có mâu thuẫn hay cự cãi gì lớn, gia đình hai bên cũng hết lời khuyên nhủ nhưng không có kết quả. Nếu chị T cương quyết ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh và chị T có 01 người con chung tên là Võ Hoàng Minh L1, sinh ngày 11/01/2020, hiện nay anh đang nuôi dưỡng. Trường hợp phải ly hôn thì anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh xác định anh và chị T không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

- Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Tô Thị T xin được ly hôn với anh L để mỗi người có cuộc sống riêng; tự nguyện giao con chung cho anh L tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa có ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn anh L vắng mặt tại phiên họp và phiên tòa lần thứ 2 mà không có lý do là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị T , ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của đương sự, giao con chung cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng, chị T không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh L vắng mặt, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng anh L vắng mặt lần thứ hai không có lý do là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh L .

[2] Về quan hệ hôn nhân, chị T và anh L chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn năm 2020 nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Nguyên nhân dẫn đến ly hôn, chị T cho rằng trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, không hòa hợp nhau về suy nghĩ, tính cách, thường hay cãi nhau. Anh chị cũng dành cho nhau cơ hội hàn gắn nhưng không có kết quả, không thể cùng nhau xây dựng gia đình. Anh chị đã ly thân từ tháng 3/2021, tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Còn anh L trình bày tại biên bản lấy lời khai ngày 08/11/2021, cho rằng không có mâu thuẫn hay cự cãi gì lớn, đề nghị gặp mặt chị T để hòa giải, tìm tiếng nói chung, nếu chị T cương quyết ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhằm động viên anh chị trở về chung sống, tiếp tục xây dựng gia đình nhưng anh L đều vắng mặt tại các phiên họp và phiên tòa mà không có lý do, còn chị T cương quyết ly hôn.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh L không đảm bảo theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về tình nghĩa vợ chồng, Hội đồng xét xử có căn cứ để cho rằng hôn nhân giữa anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Hơn nữa, anh chị đã sống ly thân thời gian dài nhưng không khắc phục được mâu thuẫn để vợ chồng tiếp tục chung sống, gia đình hai bên cũng khuyên nhủ nhưng không có kết quả nên không có khả năng đoàn tụ. Do đó, trong thảo luận nghị án, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T với anh L .

[4] Về con chung, chị T và anh L có 01 người con chung là Võ Hoàng Minh L1, sinh ngày 11/01/2020, hiện nay anh L đang nuôi dưỡng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình thì con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Anh L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, còn chị T khi nộp đơn xin ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con nhưng vì không muốn việc tranh chấp nuôi con làm ảnh hưởng đến cuộc sống hiện nay của con nên chị tự nguyện để con chung cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, anh L có đủ điều kiện nuôi con, chị T cũng tự nguyện giao con chung cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, đồng thời cũng phù hợp với lợi ích của con nên Hội đồng xét xử chấp nhận để anh L được tiếp tục nuôi dưỡng con là Võ Hoàng Minh L1. Chị T có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật, không ai được quyền cản trở. Trường hợp anh L vi phạm nghĩa vụ nuôi con hoặc không còn đủ điều kiện nuôi con thì chị T có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về cấp dưỡng, không ai yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung, chị T và anh L đều khai không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí, nguyên đơn chị T phải chịu án phí xin ly hôn theo quy định là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 9, Điều 19, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Tô Thị T được ly hôn với anh Võ Văn Vũ L.

2. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Võ Hoàng Minh L1, sinh ngày 11/01/2020 cho anh L được trực tiếp nuôi dưỡng.

Chị T có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật, không ai được quyền cản trở. Trường hợp anh L vi phạm nghĩa vụ nuôi con hoặc không còn đủ điều kiện nuôi con thì chị T có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về cấp dưỡng, không ai yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung: chị T và anh L đều khai không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị T phải chịu án phí xin ly hôn là 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo lai thu số 0005050 ngày 22/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Minh.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 11/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về