TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 107/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ Y VÀ ANH T
Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại phòng xử án, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 71/2022/HNGĐ – TLST ngày 13 tháng 7 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 31/8/2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Đinh Thị Bảo Y; sinh năm 1989 Địa chỉ: thôn Y, xã H, huyện M, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
2. Bị đơn: anh Đinh Hữu T; sinh năm 1988 Địa chỉ: tổ dân phố *, thị trấn Q, huyện M, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt lần thứ hai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/7/2022 và trong bản tự khai cũng như tại quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đinh Thị Bảo Y trình bày:
- về hôn nhân: chị Y và anh T kết hôn năm 2009 tại UBND xã Hóa Tiến, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không có ai ép buộc. Quá trình chung sống hai vợ chồng sống không hạnh phúc do anh T không chịu làm ăn, bỏ bê vợ con, sa vào con đường nghiện ngập, rượu, chè, cuộc sống vợ chồng thường xuyên căng thẳng, cãi vã, anh T thường xuyên đánh đập chị Y, hai vợ chồng cũng đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Nhận thấy cuộc sống vợ chồng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị làm đơn yêu cầu được ly hôn với anh T.
- con chung của vợ chồng: hai vợ chồng có 01 con chung là cháu Đinh Tường V, sinh ngày 06/7/2011 hiện tại con đang ở với anh T, con muốn ở với ai thì tùy theo nguyện vọng của con.
- tài sản chung và nợ chung: không có.
Tại bản tự khai ngày 12/8/2022, cháu Đinh Tường V có nguyện vọng xin được ở với anh T.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không hòa giải được do anh T không đến Tòa án mặc dù đã được triệu tập hợp lệ.
Ngày 31/8/2022, Tòa án đã tiến hành xác minh tại Công an thị trấn Quy Đạt, được biết anh T có hộ khẩu tại tổ dân phố 7, thị trấn Quy Đạt, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, hiện tại đang có mặt tại địa phương.
Ngày 14/9/2022, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ly hôn đối với chị Y và anh T. Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh T vẫn vắng mặt nên Toà án đã hoãn phiên toà với lý do vắng mặt bị đơn.
Tại phiên tòa:
Chị Y giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Về con chung: theo nguyện vọng của con muốn được ở với ai. Tài sản chung và nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
- về tố tụng: từ khi thụ lý vụ án đến khi Hội đồng xét xử vào nghị án thì Thẩm phán xác định về thẩm quyền, quan hệ pháp luật, tư cách đương sự, thời hạn chuẩn bị xét xử đúng quy định của pháp luật và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cũng đảm bảo. Tại phiên toà Hội đồng xét xử, thư ký cũng chấp hành đúng theo quy định của pháp luật. Đối với nguyên đơn đã chấp hành đúng theo quy định tại các Điều 68, 70, 71 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật.
- về nội dung: về hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Đinh Thị Bảo Y và anh Đinh Hữu T; về con chung: giao con chung là Đinh Tường V cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, buộc chị Y phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đ; về tài sản chung, nợ chung: không có nên không xem xét; chị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: chị Y yêu cầu giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh T, tranh chấp trong vụ án là quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, bị đơn cư trú tại tổ dân phố *, thị trấn Q, huyện M, tỉnh Quảng Bình, căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa.
Bị đơn vắng mặt lần thứ hai, nguyên đơn đồng ý xét xử vắng mặt bị đơn, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.
Anh Đinh Hữu T được Tòa án triệu tập hợp lệ đến để ghi nhận ý kiến, tiến hành thủ tục giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như việc tham gia phiên tòa xét xử giải quyết vụ án với nguyên đơn nhưng vẫn vắng mặt. Vì vậy, anh T đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu khởi kiện, lời trình bày cũng như chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để làm cơ sở xem xét giải quyết vụ án.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: chị Y và anh T kết hôn với nhau vào năm 2009 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không có ai ép buộc và được UBND xã Hóa Tiến, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình cấp giấy chứng nhận kết hôn vì vậy đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.
[3]. Xét yêu cầu ly hôn của chị Y: vợ chồng chị Y và anh T không còn yêu thương, quý trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau nữa thể hiện qua bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa. Hai vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng trong cuộc sống, hai vợ chồng cũng đã sống ly thân từ năm 2019. Tòa án xét thấy tình trạng hôn nhân của chị Y và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị Y là có căn cứ phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4]. Về con chung: hai vợ chồng có 01 con chung Đinh Tường V, sinh ngày 06/7/2011, Hội đồng xét xử xét thấy: hiện tại con đang ở anh T, cháu V cũng có nguyện vọng được ở với bố, chị Y cũng theo nguyện vọng của con, xuất phát từ quyền lợi về mọi mặt của con cần giao cháu V cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng là hợp lý, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Căn cứ Điều 82 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình buộc chị Y đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đ cho đến khi con đủ 18 tuổi.
[5]. Về tài sản chung và các khoản vay nợ chung: không có nên Hội đồng xét xử không xét.
Anh Đinh Hữu T vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của mình về tài sản chung, nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vấn đề tài sản chung, nợ chung theo chứng cứ và yêu cầu của chị Y. Trường hợp các đương sự có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.
[6]. Về án phí: theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Y phải chịu án phí sơ thẩm.
[7]. Xét ý kiến về việc giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát: xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39; Điều 147, 227, 228, 235, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 116 và Điều 118 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: cho chị Đinh Thị Bảo Y ly hôn anh Đinh Hữu T.
2. Về quan hệ con chung: giao con chung là cháu Đinh Tường V, sinh ngày 06/7/2011 cho anh Đinh Hữu T trực tiếp nuôi dưỡng.
Chị Đinh Thị Bảo Y có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Đinh Tường V, sinh ngày 06/7/2011 mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Thời gian cấp dưỡng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 118 của Luật hôn nhân và gia đình.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom đển cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con.
Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con thì cha, mẹ trực tiếp nuôi con, cha, mẹ không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không có nên Tòa không xét.
4. Về án phí: chị Đinh Thị Bảo Y phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số:
0000635 ngày 13/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình.
Án phí cấp dưỡng định kỳ: chị Đinh Thị Bảo Y phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/9/2022). Đương sự vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn giữa chị Y và anh T số 107/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 107/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về