TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 14/2022/TLST- HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022, về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 62/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm: 1983 (vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: Thôn 3B, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An Chỗ ở hiện nay: Xóm Đ, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Bá T, sinh năm: 1984 (vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: Thôn 3B, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An Chỗ ở hiện nay: Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng tại Q.
Địa chỉ: Thôn X, xã V, huyện T, tỉnh Quảng Bình
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 01/6/2021 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu thống nhất trình bày như sau:
Về hôn nhân: Chị và anh T về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2017 đến ngày 16/01/2019 thì đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An, hôn nhân giữa chị và anh T được xác lập trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do hai bên bất đồng về quan điểm sống, do không thể sống chung với nhau được nữa nên hai bên đã sống ly thân từ tháng 2 năm 2019 cho đến nay không còn ai quan tâm chăm sóc tới nhau nữa. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Bá T.
Về con chung: Chị và anh T có một con chung tên là Nguyễn Bá Hiếu K, sinh ngày 06/11/2018, chị và anh T không nhận nuôi con nuôi. Nay ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của chị và anh T. Chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về chia tài sản: Chị và anh T không có tài sản chung, không có tài sản cho ai vay cũng như không vay nợ ai tài sản gì nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 15/4/2022 bị đơn anh Nguyễn Bá T trình bày:
Về hôn nhân: Anh T thống nhất như chị T đã trình bày về thời gian, địa điểm, điều kiện kết hôn cũng như nguyên nhân mâu thuẫn của anh và chị T. Tuy nhiên theo anh sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau được 3 tháng thì phát sinh mâu thuẫn nên hai bên đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2019 cho đến nay. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh cũng đồng ý ly hôn với chị Nguyễn Thị T.
Về nuôi con chung: Anh và chị T có một con chung tên là Nguyễn Bá Hiếu K, sinh ngày 06/11/2018, không nhận nuôi con nuôi đúng như chị T đã trình bày. Tuy nhiên trước khi kết hôn với chị T anh đã có bốn người con riêng. Nay ly hôn anh đồng ý giao con chung của anh và chị T cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.
Về chia tài sản: Anh và chị T không có tài sản chung, không có tài sản cho ai vay cũng như không vay nợ ai tài sản gì nên anh cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luận và quan điểm giải quyết vụ án:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký: Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Việc thu thập chứng cứ, xác minh, tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Đúng thành phần, đúng quy định từ khi mở phiên toà cho đến khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án.
Việc tuân theo pháp luận của đương sự: Đương sự chấp hành đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ.
Về quan điểm giải quyết vụ án:
Về hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Bá T Về nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung của chị T và anh T là Nguyễn Bá Hiếu K, sinh ngày 06/11/2018 cho đến lúc con chung trưởng thành.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về chia tài sản: Chị T và anh T đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc chị Nguyễn Thị T phải chịu toàn bộ án phí LHST.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà. Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An nhận định:
[1]Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai giải quyết ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn với anh Nguyễn Bá T có hộ khẩu thường trú tại Thôn 3B, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An. Nên căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An.
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T và bị đơn anh Nguyễn Bá T vắng mặt tại phiên tòa và đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.
[2] Về nội dung:
2.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Bá T, đăng ký kết hôn vào ngày 16/01/2019 tại UBND xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An, hôn nhân được xác lập trên cơ sở tự nguyện. Do đó hôn nhân giữa chị T và anh T là hợp pháp.
Xét về nguyên nhân mâu thuẫn: Nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị T, anh T là do hai bên bất đồng về quan điểm sống, tính tình vợ chồng không hợp. Do không thể sống chung với nhau được nữa nên hai bên đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay không còn ai quan tâm chăm sóc tới nhau nữa điều đó đã được hai bên thừa nhận và phù hợp với biên bản xác minh. Vì vậy chính tỏ rằng mâu thuẫn giữa chị T và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặc dù anh T cũng đồng ý ly hôn với chị T nhưng do anh T và chị T đều vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cho chị T được ly hôn với anh T.
2.2. Về nuôi con chung: Chị T và anh T có một con chung tên là Nguyễn Bá Hiếu K, sinh ngày 06/11/2018, không nhận nuôi con nuôi.
Nay ly hôn chị T và anh T đều có nguyện vọng giao con chung của chị T và anh T cho chị T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Thấy rằng nguyện vọng của các bên là phù hợp bởi anh T hiện đang phải nuôi bốn người con riêng, bản thân anh làm ăn xa mặt khác con chung của chị T và anh T còn nhỏ. Vì vậy để đảm bảo quyền và lợi ích mọi mặt của con chung chưa thành niên sau khi chị T, anh T ly hôn, cần giao con chung của chị T, anh T cho chị T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.
2.3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
2.4. Về chia tài sản: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Bá T đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị T là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên chị T phải chịu án phí LHST theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; các Điều 238; 266; 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82; 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Bá T 2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của chị T và anh T là Nguyễn Bá Hiếu K, sinh ngày 06/11/2018 đến lúc con chung trưởng thành.
Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu anh Nguyễn Bá T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
2.2. Anh Nguyễn Bá T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
2.3. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.
3. Về chia tài sản: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Bá T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) mà chị T đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0003410 ngày 24/01/2022, tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An (chị T đã nộp đủ tiền án phí).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 08/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về