Bản án về ly hôn giữa chị T và anh N số 87/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 87/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/03/2022 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ T VÀ ANH N

Ngày 10 tháng 3 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 291/2021/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị T, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Số 647/26, tổ X, khóm Đông Thịnh 3, phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: anh N, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Số 249, tổ X, ấp Phú Cường B, xã Phú Thạnh, huyện P, tỉnh An Giang.

Cả hai bên đương sự đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 04 tháng 7 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị T trình bày:

1. Quan hệ hôn nhân: năm 2005 chị và anh N tìm hiểu về tình cảm, năm 2007 anh chị đồng ý kết hôn, năm 2008 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã Phú Thạnh, huyện P, tỉnh An Giang, Giấy chứng nhận kết hôn 07 ngày 23/01/2008. Vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2010 phát sinh mâu thuẫn do anh N sống không chung thủy, có quan hệ tình cảm với phụ nữ khác, chị yêu cầu ly hôn, anh N hứa sửa chữa, chị bỏ qua vợ chồng sống bình thường. Năm 2016 tiếp tục phát sinh mâu thuẫn do anh N uống rượu nhiều, không quan tâm gia đình, năm 2017 vợ chồng ly thân, mặc dù sống chung nhà cha mẹ chồng Nng vợ chồng không còn quan tâm với nhau. Đến năm 2020 cha chồng có hành vi đánh và chửi chị, nên chị bỏ về nhà cha mẹ ruột sống tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, từ đó đến nay chị không trở về.

Quá trình giải quyết vụ án anh N đề nghị Tòa án cho thời gian hàn gắn từ ngày 09/12/2021 đến ngày 07/01/2022, sau đó anh N xin gia hạn thêm thời gian hàn gắn đến ngày 28/02/2022. Trong thời gian hàn gắn anh N có đến gặp chị ba lần: lần thứ nhất thì xin lỗi; hai tuần sau đến gặp chị lần thứ hai cũng xin lỗi; lần thứ ba (ngày 19/02/2022) anh N không hàn gắn mà đe dọa nếu ly hôn rồi mà chị có tình cảm với người đàn ông khác thì anh sẽ đâm giết người đàn ông đó. Chị nhận thấy anh N không còn tình cảm, hàn gắn chỉ là giả tạo. Nay, chị cương quyết ly hôn vì không còn tình cảm, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh N.

2. Nuôi con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn K, sinh ngày 11/3/2009; Nguyễn D, sinh ngày 10/3/2015, cả hai con chị T đang nuôi dưỡng. Chị yêu cầu trực tiếp nuôi hai con, không yêu cầu anh N cấp dưỡng cho con, vì chị có điều kiện nuôi con, chị có thu nhập ổn định từ lương 6.000.000đ/tháng.

3. Về tài sản chung: Vợ chồng có mảnh đất ở thuộc cụm tuyến dân cư xã Phú Thành, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH04902 ngày 06/10/2017 của UBND huyện P cấp cho vợ chồng đứng tên và vợ chồng quản lý (mảnh đất trống), chị không yêu cầu chia để sau này cho con, nếu có chia thì hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: không có.

- Anh N trình bày:

+ Về hôn nhân: anh thống nhất toàn bộ trình bày trên của chị T là đúng. Chị T yêu cầu ly hôn là lỗi của anh. Thời gian hàn gắn anh có đến gặp chị T ba lần, hai lần đầu anh có gặp chị T xin lỗi và năn nĩ chị T trở lại sống chung, nhưng T vẫn không đồng ý. Ngày 11/02/2022 anh gửi quà (cái giỏ) cho T, tối ngày 18/02/2022 chị T nhắn tin qua điện thoại của đứa con lớn (Nguyễn K) nội dung tin nhắn “muộn rồi con ơi, mẹ có chồng khác rồi”, tối ngày 19/02/2022 anh đến gặp chị T (lần này là thứ ba) hai bên nói chuyện qua lại, và từ tin nhắn trên anh bức xúc nên có nói “nếu có quyết định ly hôn ai có bước thêm bước nữa thì hai bên không được quyền nhìn mặt con cái, thằng nào quen biết tình cảm với bà thì tôi sẽ đâm thằng đó”.

Nay, chị T cương quyết ly hôn anh vẫn không đồng ý ly hôn, vì anh còn thương chị T.

+ Nuôi con chung: nếu Tòa án cho ly hôn thì anh đồng ý giao 02 con cho chị T nuôi dưỡng, chị T không yêu cầu cấp dưỡng cho con, anh không cấp dưỡng.

+ Về tài sản chung: Vợ chồng có mảnh đất như Tiên trình bày trên là đúng, ngoài ra còn có số tiền 900.000.000đ đang gửi tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn – chi nhánh Chợ Vàm, anh đứng tên tiền gửi sổ tiết kiệm. Hai tài sản này anh không yêu cầu chia.

Nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: chị T khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh N, Tòa án thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị T và anh N đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố Tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị T và anh N.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Hôn nhân của chị T và anh N là hợp pháp, vì anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Xét tình trạng hôn nhân của anh chị thấy rằng từ ănm 2010 đến năm 2016 nhiều lần vợ chồng mâu thuẫn do anh N sống không chung thủy và uống rượu nhiều, thiếu quan tâm vợ con, vợ chồng ly thân từ năm 2017 đến nay. Khi chị T khởi kiện ly hôn tại Tòa án anh N đề nghị Tòa án cho thời gian hàn gắn tình cảm vợ chồng từ ngày 09/12/2021 đến ngày 28/02/2022, nhưng không có kết quả, do chị T không còn tình cảm và chị cương quyết ly hôn, khi anh N không hàn gắn được thì anh lại có lời lẽ đe dọa chị T, làm cho tình cảm vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng hơn. Theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Như vậy, chị T yêu cầu ly hôn anh N là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T, cho ly hôn giữa chị T và anh N.

[2.2] Về nuôi con chung: cả 02 con chung tên Nguyễn K, sinh ngày 11/3/2009; Nguyễn D, sinh ngày 10/3/2015 chị T đang nuôi dưỡng, chị yêu cầu trực tiếp nuôi hai con, anh N đồng ý giao con cho chị T nuôi, các cháu cũng có nguyện vọng sống với mẹ. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T được trực tiếp nuôi 02 con K và D. Chị T không yêu cầu anh N cấp dưỡng cho con là tự nguyện của chị, nên không xem xét.

[2.3] Căn cứ khoản 3 Điều 82, Điều 83, 84, 116 Luật Hôn nhân và gia đình anh N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng cho con.

[2.4] Về chia tài sản: chị T và anh N không yêu cầu, nên không đề cập.

[2.5] Về nợ chung: ghi nhận hai bên xác định không có nợ chung, Nng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm, chị T phải chịu án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83, 84, 116 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Quan hệ hôn nhân: cho ly hôn giữa chị T và anh N. Giấy chứng nhận kết hôn số 07 ngày 23/01/2008 của Ủy ban nhân dân xã Phú Thạnh, huyện P, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

2. Về nuôi con chung: giao 02 con chung tên Nguyễn K, sinh ngày 11/3/2009; Nguyễn D, sinh ngày 10/3/2015 cho chị T trực tiếp nuôi, chị T đang nuôi dưỡng. Anh N không phải cấp dưỡng cho con.

Anh N không trực tiếp nuôi con, anh có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng cho con.

3. Về chia tài sản: không có.

Về nợ chung: ghi nhận hai bên xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: chị T phải chịu 300.000đ được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0004097 ngày 09/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh An Giang.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn giữa chị T và anh N số 87/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:87/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về