Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 344/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 344/2023/HC-PT NGÀY 20/09/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 170/2023/TLPT- HC ngày 28 tháng 7 năm 2023 về việc: “Kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” Do Bản án hành chính sơ thẩm số 85/2023/HC-ST ngày 13/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.

Giữa các đương sự:

* Người khởi kiện: Ông Trần Đăng H, sinh năm 1968 và bà Đoàn Thị Thu D, sinh năm 1970; địa chỉ: số C, đội A, thôn Đ, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Trường G, sinh năm 1992; địa chỉ: B T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

* Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Địa chỉ: số I, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh Đ – Chức vụ: Phó Chủ tịch UBND huyện K.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Lê D1, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1967; địa chỉ: số B, đội A, thôn Đ, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Người đại diện theo ủy quyền:

Ông Nguyễn Văn N1; địa chỉ: B Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Ông Lê Đình L, sinh năm 1954 và bà Đặng Thị L1, sinh năm 1958; Địa chỉ: thôn Đ, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Người kháng cáo: Ông Lê D1 và bà Nguyễn Thị N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng, người khởi kiện và đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông Trần Đăng H, bà Đoàn Thị Thu D trình bày:

Vào năm 1988, ông Trần Đăng L2 (là bố của ông Trần Đăng H), địa chỉ: Số D, đội A, thôn Đ, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Có mua 01 thửa đất của ông S với diện tích khoảng 4.000m2 (Bốn ngàn mét vuông). Đến năm 1991, ông L2 đã cho vợ chồng ông H bà D toàn bộ diện tích đất khoảng 4.000m2 (Bốn ngàn mét vuông). Đến ngày 27/07/1994, ông H bà D đã kê khai đối với 01 phần diện tích trên và được Ủy ban nhân dân huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 151660. Thửa đất: 141, số tờ bản đồ: 02, diện tích: 3040m2 (Ba ngàn không trăm bốn mươi mét vuông). Diện tích đất còn lại khoảng 1.000m2 (Một ngàn mét vuông) gia đình ông H bà D vẫn sử dụng ổn định cho đến nay, nhưng chưa làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Đến năm 2022, gia đình ông H bà D làm thủ tục kê khai, đo đạc để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích còn lại là 1.000m2 (Một ngàn mét vuông), thì phát hiện 01 phần thửa đất của tôi với diện tích khoảng 440m2 (Bốn trăm bốn mươi bốn mét vuông) trong diện tích 1.000m2 (Một ngàn mét vuông) đã do ông Lê D1 bà Nguyễn Thị N cấp chồng lên phần diện tích đất của gia đình ông H bà D.

Sau đó, ông H bà D đã yêu cầu ông D1 bà N tách phần diện tích đã cấp chồng lấn để trả lại cho gia đình mình. Tuy nhiên, ông D1 bà N vẫn không thực hiện.

Vì vậy, ông H bà D đã có Đơn đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai gửi đến Ủy ban nhân dân xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để hòa giải tranh chấp đất đai đối với ông D1 bà N. Tuy nhiên, qua các lần hòa giải và giải quyết thì không thành tại Biên bản làm việc ngày 16/11/2022 của Ủy ban nhân xã D với kết quả kết luận buổi hòa giải không thành. Trong buổi hòa giải ông H bà D phát hiện Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông D1 bà N đối với thửa đất số:

207a và thửa đất số: 208, tờ bản đồ số: 2, diện tích: 6705,0m2 (Sáu ngàn, bảy trăm lẻ năm mét vuông) do Ủy ban nhân dân huyện K cấp ngày 17/11/2008, cấp chồng lên phần diện tích đất của gia đình ông H bà D với diện tích khoảng 440m2 (Bốn trăm bốn mươi bốn mét vuông). Với tứ cận như sau: Phía Đông giáp đất ông Lê D1 bà Nguyễn Thị N; Phía Bắc giáp đất của chúng tôi là ông Trần Đăng H bà Đoàn Thị Thu D; Phía Tây giáp giáp đất ông Lê D1 bà Nguyễn Thị N; Phía Nam giáp đất ông Lê D1 bà Nguyễn Thị N. Với diện tích bị cấp chồng lấn với chiều ngang phía Bắc dài khoảng 13m, chiều ngang phía Nam dài 18m x chiều dài phía Tây dài 29,6m, chiều dài phía Đông dài 27,7m. Tại buổi hòa giải và Biên bản hỏa giải ông D1 bà N cũng đã thừa nhận có việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chồng lên phần diện tích đất của ông H, bà D.

Vì các lẽ trên nên ông Trần Đăng H và bà Đoàn Thị Thu D khởi kiện đề nghị Tòa án xét xử tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Lê D1 bà Nguyễn Thị N đối với thửa đất số: 207a và thửa đất số: 208, tờ bản đồ số: 2, diện tích: 6705,0m2 (Sáu ngàn, bảy trăm lẻ năm mét vuông) do Ủy ban nhân dân huyện K cấp ngày 17/11/2008.

2. Quá trình giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền của người bị kiện UBND huyện K trình bày:

Về nguồn gốc, trình tự cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Ngày 15/10/2008 hộ ông Lê D1 và bà Nguyễn Thị N nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 207a, diện tích 3045m² và thửa 208, diện tích: 3660m², tờ bản đồ số 2, mục đích sử dụng đất: Đất trồng cây lâu năm (LNC) thuộc Giấy chứng nhận QSDĐ số B 151968 do UBND huyện K cấp ngày 27/7/1994 cho ông Lê Đình L3 và bà Đặng Thị L1 theo Hợp đồng chuyển chuyển nhượng Quyền sử dụng đất số 85/2008 được UBND xã D chứng thực ngày 15/10/2008.

Sau khi tiếp nhận, xử lý hồ sơ Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã chuyển hồ sơ đến Phòng Tài nguyên và Môi trường để thẩm định và tham mưu cho UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận QSDĐ số AN 296005, ngày cấp 17/11/2008 đối với thửa đất số 207a, diện tích 3045m² và thửa 208, diện tích: 3660m², tờ bản đồ số 2, mục dích sử dụng đất. Đất trồng cây lâu năm (LNC) cho hộ ông Lê D1 và bà Nguyễn Thị N, địa chỉ thường trú tại: Đ, thôn Đ, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Địa chỉ thửa đất thôn Đ, xã D, huyện K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của UBND huyện K: đề nghị Toà án căn cứ vào hồ sơ vụ việc để xem xét, giải quyết theo quy định pháp luật.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê D1, bà Nguyễn Thị N và đại diện theo ủy quyền của ông D1, bà N - ông Nguyễn Văn N1 trình bày:

Thứ nhất: Về nguồn đất đai gia đình tôi mua lại của ông Lê Đình L, đội 3 Thôn Đ, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk diện tích đất 6705m², việc mua bán chuyển nhượng vào năm 1995, lúc bấy giờ hai bên làm giấy viết tay nhưng tại thời điểm hiện tại thửa đất đã cấp giấy CNQSDĐ, đến năm 2008 hai bên mới tiến hành làm hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất với lý do gia đình tôi khó khăn về kinh tế không đủ tiền giao cho ông L lên đến năm 2008 gia đình tôi mới có đủ giao cho ông L, thì ông L đã làm thủ tục sang nhượng cho tôi; Ngày 17/11/2008, gia đình tôi được cấp giấy CNQSDĐ mang tên hộ ông Lê D1 vợ là Nguyễn Thị N thửa đất 207, 208 tờ bản đồ 2, diện tích 6705m², kể từ thời điểm cấp giấy năm 2008 không có hộ dân nào khiếu nại về việc cấp giấy CNQSDĐ.

Thứ hai: Vào khoảng sau thời gian năm 1995, ông Trần Đăng H có đến khu vực rẫy nhà chúng tôi mua một thửa đất giáp ranh, quá trình làm rẫy ông H đã lấn luôn con đường đi chung do Nhà nước mở để các hộ dân đi chung và lấn một phần diện tích đất của gia đình chúng tôi khoảng 400m², phần đất này đã được cấp giấy CN QSDĐ cho tôi mặc dù những người dân làm rẫy trong khu vực này yêu cầu hộ ông H trả lại phần đường đi cho người dân, trước yêu cầu của Nhà nước và người dân nên ông H đã trả lại hiện trạng con đường. Riêng phần đất của gia đình, tôi đã yêu cầu ông H trả lại toàn bộ phận đất lấn chiếm thuộc quyền sở hữu hợp pháp của gia đình nhưng gia đình ông H chây ỳ không chịu trả lại cho gia đình tôi. Mặc dù hai bên đã có thương lượng tôi đồng ý hỗ trợ cho ông H một phần tiền chi phí cho cây trồng mà ông H đã bỏ ra trồng trên phần đất của gia đình tôi nhưng ông H không chịu trả lại, vẫn chiếm sử dụng phần đất nằm trong giấy CNQSDĐ đã được cấp cho cho ông L mà sau đó ông L đã chuyển nhượng lại cho gia đình tôi.

Thứ ba: Kể từ thời điểm cấp giấy CNQSDĐ từ năm 2008 tới thời điểm hiện tại là 14 năm. Gia đình chúng tôi không nhận được bất kỳ việc khiếu nại của hộ ông H cũng như các hộ dân xung quanh có đất giáp ranh với chúng tôi. Theo quy định của Luật tố tụng hành chính thời hiệu khởi kiện tranh chấp là 01(một) năm. Trước đây tôi có được UBND xã D, huyện K mời ra giải quyết việc tranh chấp đất đai, tại thời điểm đó tôi có khai nhầm về thời gian mua bán đất, tôi khai là mua năm 2005 là nhầm lẫn, thực tế việc mua bán đất, làm giấy tờ giữa tôi với ông L là năm 1995.

Nay tôi làm đơn yêu cầu khởi kiện độc lập đề nghị Tòa án áp dụng các quy định pháp luật ra phán quyết: buộc hộ ông Trần Đăng H có nghĩa vụ trả lại toàn bộ diện tích lấn chiếm khoảng 400m² cho gia đình chúng tôi và bác toàn bộ nội dung khởi kiện của ông Trần Đăng H.

4. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Đình L, bà Đặng Thị L1 trình bày:

Ông L, bà L1 trước đây không có quan hệ họ hàng gì với ông D1, bà N, trước đây là người cùng thôn. Năm 1995 ông, bà có bán 02 thửa đất số 207a, 108, tờ bản đồ số 2, diện tích 6705m² cho vợ chồng ông Lê D1, bà Nguyễn Thị N. Tới năm 2008 ông L, bà L1 mới làm xong Giấy CNQSDĐ cho ông D1 bà N. Quá trình chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có tranh chấp với ai, nguồn gốc các thửa đất nêu trên do ông L khai hoang từ năm 1993. Sau khi chuyển nhượng thì các bên đã hoàn thành xong hợp đồng, không phát sinh mâu thuẫn gì. Việc giao đất có bàn giao thực địa tuy nhiên các bên không lập biên bản, chỉ nói miệng với nhau. Phần đất tại tờ bản đồ số 207a có diện tích 2045 m², cạnh giáp thửa đất số 172 là phần đất giáp ông Nguyễn Q, cạnh giáp thửa đất 173 giáp đất ông Nguyễn Văn H1. Cạnh giáp đường bê tông hiện nay một bên giáp thửa đất số 172, bên phải giáp đất ông Trần Đăng H. Hiện nay, ranh giới cụ thể giữa các thửa đất do thời gian chuyển nhượng đã lâu nên ông L, bà L1 không nhớ rõ. Đối với yêu cầu của ông H, bà D khởi kiện, thì ông L, bà L1 cho rằng việc chuyển nhượng là hợp pháp, không có tranh chấp gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 85/2023/HC-ST ngày 13/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; Điều 116; Điều 157; Điều 158; điểm b khoản 2 Điều 193; Điều 194, Điều 204 và Điều 206 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Áp dụng khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đăng H, bà Đoàn Thị Thu D.

Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 296005 do Ủy ban nhân dân huyện K cấp ngày 17/11/2008 cho hộ ông Lê D1, bà Nguyễn Thị N tại thửa đất số 207a, 208 tờ bản đồ số 02, tổng diện tích 6705m², thửa đất tọa lạc tại xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Ông Lê D1, bà Nguyễn Thị N có quyền liên hệ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành thực hiện các trình tự, thủ tục để được cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng với hiện trạng đất mà ông Lê D1, bà Nguyễn Thị N đang quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 26/6/2023, ông Lê D1, bà Nguyễn Thị N nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng sửa bản án sơ thẩm, bác toàn bộ nội dung khởi kiện của người khởi kiện.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người đại diện theo u quyền của ông Lê D1, bà Nguyễn Thị N giữ nguyên nội dung kháng cáo và trình bày: về nguồn gốc đất, ông Lê D1, bà Nguyễn Thị N nhận chuyển nhượng của ông Lê Đình L vào năm 1995, hình thức giấy viết tay; đến năm 2008, hai bên tiến hành ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân xã D ký chứng thực, đã đăng ký biến động sang tên ông Lê D1, bà Nguyễn Thị N đối với thửa đất số 207a, 208 tờ bản đồ số 02, tổng diện tích 6705m². Việc chuyển nhượng và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng pháp luật, ông L trước đây và ông D1, bà N sau này không có tranh chấp với hộ liền kề. Như vậy, thời hiệu để ông H khởi kiện 1 năm đã hết. Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án và tuyên hu toàn bộ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính tuyên hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại. kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo u quyền của ông D1, bà N đề nghị hu bản án sơ thẩm với lý do hu toàn bộ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích: 6705,0m2 là không đúng. Thấy rằng, bản án sơ thẩm hu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cấp lại theo đúng hiện trạng là phù hợp với các biên bản hoà giải tại xã và biên bản xem xét thẩm định tại chổ. Do đó, kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông D1, bà N là không có căn cứ chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Thửa đất vợ chồng ông H, bà D đang sử dụng có nguồn gốc vào năm 1991, ông Trần Đăng L2 (cha ông H) cho vợ chồng ông H, bà D diện tích đất khoảng 4.000m2., đến ngày 27/07/1994, ông H, bà D đã kê khai đối với 01 phần diện tích trên và được Ủy ban nhân dân huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 151660 tại thửa đất số 141, tờ bản đồ số 02, diện tích: 3040m2. Diện tích đất còn lại khoảng 1.000m2 gia đình ông H bà D vẫn sử dụng ổn định cho đến nay, nhưng chưa làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm 2022, gia đình ông H, bà D làm thủ tục kê khai, đo đạc để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích còn lại là 1.000m2 thì ông H, bà D phát hiện 01 phần thửa đất khoảng 440m2 trong diện tích 1.000m2 nói trên đã được cấp chồng cho ông D1, bà N theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông D1 bà N đối với thửa đất số 207a và thửa đất số 208, tờ bản đồ số 2, diện tích 6705,0m2 do Ủy ban nhân dân huyện K cấp ngày 17/11/2008.

[2] Tại biên bản làm việc ngày 16/11/2022 tại UBND xã D, ông Lê D1 thừa nhận một phần diện tích đất của gia đình ông hiện đang trùng lên diện tích đất của gia đình bà D và quá trình kiểm tra thực địa, đoàn kiểm tra gồm đại diện UBND xã Dray Sáp gồm Phó chủ tịch UBND xã, cán bộ địa chính xã, cán bộ tư pháp xã D, cán bộ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã D đã kết luận phần đất của ông D1 trùng phần đất của bà D khoảng 444m².

[3] Tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 11/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk thể hiện: diện tích đất tranh chấp có tứ cận phía Bắc giáp phần đất do bà D, ông H quản lý, sử dụng, có cạnh dài 29,6m; phía Nam giáp đất ông D1, có cạnh dài 27,7m; phía Đông giáp đường và đất ông V, có cạnh dài 13m; phía Tây giáp đất ông D1, có cạnh dài 18m. Phần diện tích tranh chấp này nằm trong thửa đất số 207a, tờ bản đồ số 02, thửa đất 207a được cấp Giấy CNQSDĐ số AN 296005 ngày 17/11/2008 cho ông D1, bà N. Phần diện tích đất tranh chấp được xem xét thẩm định do ông H, bà D quản lý, sử dụng từ năm 1989 đến nay, mục đích trồng hoa màu, cây ngắn ngày; hiện trạng đất đang được đào xới, cải tạo do bà D, ông H thuê đào. Tại biên bản, ý kiến của ông D1: “Phần đất này hiện nay cô D đang sử dụng”.

[4] Như vậy, việc ông H, bà D cho rằng diện tích khoảng 444m² được cấp chồng cho ông D1, bà N theo Giấy CNQSDĐ số AN 296005 ngày 17/11/2008 là có cơ sở, phù hợp với kết luận của UBND xã D và kết quả xem xét thẩm định tại chổ, phù hợp với hiện trạng sử dụng đất nên có căn cứ xác định việc ông D1, bà N được UBND huyện K, tỉnh Đắk Lắk cấp Giấy CNQSDĐ số AN 296005 ngày 17/11/2008 tại thửa đất số 207a, 208 tờ bản đồ số 02, diện tích 6705m² là có sai sót, cấp chồng lấn một phần diện tích lên phần diện tích đất của ông H, bà D đang quản lý, sử dụng.

[5] Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông H, bà D tuyên hủy Giấy CNQSDĐ nêu trên, đồng thời thông báo ông D1, bà N có quyền liên hệ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng với hiện trạng đất mà ông D1, bà N đang quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật là có căn cứ. Do đó, người đại diện theo u quyền của ông D1, bà N đề nghị hu bản án sơ thẩm để giải quyết lại là không có cơ sở chấp nhận.

[6] Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông D1, bà N phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính;

1. Bác kháng cáo của ông Lê D1, bà Nguyễn Thị N;

2. Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 85/2023/HC-ST ngày 13/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

3. Án phí hành chính phúc thẩm:

Ông Lê D1, bà Nguyễn Thị N phải chịu 300.000đ, đã nộp tại biên lai số AA/2022/0003782 ngày 11/7/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 344/2023/HC-PT

Số hiệu:344/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về