Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính lĩnh vực quản lý đất đai số 114/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 114/2023/HC-PT NGÀY 20/04/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 20 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 329/2022/TLPT- HC ngày 25/11/2022 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về lĩnh vực quản lý đất đai”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 120/2022/HC-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1019/2023/QĐ-PT ngày 20 tháng 3 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Phạm Viết H, sinh năm 1938 và bà Trần Thị G, sinh năm 1942; cùng địa chỉ: Thôn G 2, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1997, địa chỉ: Tỉnh Quảng Nam; có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Quảng Nam; địa chỉ: Khối 3, thị trấn T, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Văn T, chức vụ: Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T; có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện:

+ Ông Lê Văn T, chức vụ: Phó Trưởng phòng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T; có mặt.

+ Ông Bùi Thế K, chức vụ: Phó giám đốc T tâm bồi thường và giải phóng mặt bằng thuộc Công ty cổ phần đầu tư và phát triển X Quảng Nam; có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Phạm Viết M, sinh năm 1975;

+ Ông Phạm Viết T, sinh năm 1976;

+ Ông Phạm Viết T, sinh năm 1983;

+ Ông Phạm Viết C, sinh năm 1985.

Cùng địa chỉ: Thôn G 2, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; đều vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1997; địa chỉ: tỉnh Quảng Nam; có đơn xin xử vắng mặt.

4. Người kháng cáo: Người khởi kiện ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại các văn bản có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông Phạm Viết H, bà Trần Thị G trình bày:

Thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T (Giai đoạn 1 - 129 ha) tại xã T, Uỷ ban nhân dân (viết tắt là UBND) huyện T có ban hành các quyết định thu hồi đất, trong đó có Quyết định số 4880/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 thu hồi thửa đất số 206, tờ bản đồ số 50, diện tích 2.955m2 (đất ở và cây lâu năm) và Quyết định số 4881/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 thu hồi thửa đất số 223, tờ bản đồ số 50, diện tích 3.176,2m2 đất cây lâu năm. Đồng thời, UBND huyện T cũng đã ban hành quyết định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi các thửa đất trên. Tuy nhiên, ông H, bà G không thống nhất với nội dung của cả hai quyết định trên, bởi lẽ:

Đối với thửa đất số 206, tờ bản đồ số 50, diện tích 2.955m2 bị thu hồi theo Quyết định số 4880/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của UBND huyện T: Tại Điều 1 của quyết định, UBND huyện T công nhận và thu hồi toàn bộ diện tích 2.955m2, trong đó có 200m2 đất ở nông thôn, 2.755m2 đất trồng cây lâu năm có nguồn gốc từ đất vườn của hộ gia đình ông H, bà G.

Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 8 Quyết định số 15/2020/QĐ- UBND ngày 05/11/2020 của UBND tỉnh Quảng Nam thì: “Trường hợp diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở theo quy định này thì diện tích đất ở được xác định bằng hạn mức công nhận đất ở, diện tích đất còn lại sau khi đã xác định diện tích đất ở thì được xác định sử dụng vào mục đích hiện trạng đang sử dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật đất đai. Trường hợp diện tích thửa đất nhỏ hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất được xác định là toàn bộ diện tích thửa đất”.

Thửa đất của gia đình ông H, bà G thuộc khu vực II theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 6 Quyết định số 15/2020/QĐ-UBND của UBND tỉnh Quảng Nam nên UBND huyện T phải công nhận diện tích đất ở là 300m2 chứ không phải là 200m2 đất ở nông thôn theo như Quyết định số 4880/QĐ-UBND ngày 13/8/2020.

Đối với thửa đất số 223, tờ bản đồ số 50, diện tích 3.176,2m2 bị thu hồi theo Quyết định số 4881/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của UBND huyện T:

Từ trước năm 1978, gia đình ông H, bà G đã khai phá và sinh sống đầu tiên tại thôn G trên thửa đất số 223, tờ bản đồ số 50. Tuy nhiên, căn cứ vào diện tích của quyết định này ông H, bà G thấy không đúng và sai về hiện trạng sử dụng đất của gia đình mình như sau:

- Nguồn gốc sử dụng của thửa đất số 223 là từ trước năm 1978, sử dụng vào mục đích nhà ở;

- Diện tích sử dụng là 7.686m2 chứ không phải là 3.176,2m2.

Việc xác định không đúng loại đất tại hai quyết định nói trên đã làm ảnh hưởng đến giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho gia đình ông H, bà G tại Quyết định số 5137/QĐ-UBND ngày 19/8/2020.

Nhận thấy nội dung các quyết định của UBND huyện T đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình mình. Ngày 15/12/2020, ông H, bà G làm đơn khiếu nại gửi đến Chủ tịch UBND huyện T yêu cầu giải quyết các vấn đề trên. Từ thời điểm nộp đơn khiếu nại đến bây giờ đã hơn 8 tháng nhưng UBND huyện T vẫn không ban hành Thông báo thụ lý cũng như quyết định giải quyết khiếu nại theo đơn gửi ngày 15/12/2020 của ông H, bà G theo đúng thời hạn luật định.

Do đó, ông Phạm Viết H, bà Trần Thị G khởi kiện yêu cầu Tòa án:

- Hủy Quyết định số 4880/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của Ủy ban nhân dân huyện T về việc công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T (Giai đoạn 1-129 ha) tại xã T, huyện T;

- Hủy Quyết định số 4881/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của Ủy ban nhân dân huyện T về việc công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T (Giai đoạn 1-129 ha) tại xã T, huyện T;

- Hủy Quyết định số 5137/QĐ-UBND ngày 19/8/2020 của Ủy ban nhân dân huyện T về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông (bà) Phạm Viết H và Trần Thị G để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T - đợt 8, tại xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

- Buộc UBND huyện T xác định lại loại đất ở đối với thửa đất số 206, tờ bản đồ số 50; thửa đất số 223, tờ bản đồ số 50 tại thôn G, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam và ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông (bà) Phạm Viết H và Trần Thị G theo đúng quy định pháp luật.

Tại phiên tòa sơ thẩm, người khởi kiện rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc: Hủy Quyết định số 4880/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của Ủy ban nhân dân huyện T về việc công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T (Giai đoạn 1-129 ha) tại xã T, huyện T và buộc UBND huyện T xác định lại loại đất ở và ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông (bà) Phạm Viết H và Trần Thị G đối với thửa đất số 206, tờ bản đồ số 50 tại thôn G, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam theo đúng quy định pháp luật và thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, xác định lại yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án:

- Hủy Quyết định số 4881/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của Ủy ban nhân dân huyện T về việc công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T (Giai đoạn 1-129 ha) tại xã T, huyện T;

- Hủy Quyết định số 5137/QĐ-UBND ngày 19/8/2020 của Ủy ban nhân dân huyện T về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông (bà) Phạm Viết H và Trần Thị G để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T - đợt 8, tại xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

- Buộc UBND huyện T xác định lại loại đất ở và ban hành quyết định thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông (bà) Phạm Viết H và Trần Thị G đối với thửa đất số 223, tờ bản đồ số 50 tại thôn G, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam theo đúng quy định pháp luật.

Tại các văn bản có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện UBND huyện T trình bày:

UBND huyện T không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện;

bởi lẽ:

1. Đối với yêu cầu hủy Quyết định số 4880/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của UBND huyện T về việc công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất tại thửa đất số 206, thuộc mảnh đo đạc chỉnh lý bản đồ địa chính số 03-2019 (gọi tắt là tờ bản đồ số 03-2019):

a. Quá trình kê khai đăng ký sử dụng đất qua các thời kỳ:

- Theo hồ sơ 299/TTg xã T thể hiện: Tại thửa đất số 206, tờ bản đồ số 03- 2019, diện tích 2.997,6m2 hộ ông Phạm Viết H không có kê khai đăng ký.

- Theo hồ sơ 64/CP xã T thể hiện: Thửa đất số 206, tờ bản đồ số 03-2019, diện tích 2.997,6m2 là thửa đất số 255, tờ bản đồ số 50 do ông Phạm Viết H đứng tên kê khai và được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số vào sổ 1318 QSDĐ/Q1 ngày 28/12/2000, diện tích 2.955m2, loại đất ở và vườn cho hộ ông Phạm Viết H.

b. Quá trình thu hồi đất thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng:

Theo Biên bản họp hội đồng tư vấn xét nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất ngày 30/8/2019 của UBND xã T xác định diện tích chênh lệch tăng 46,2m2 là do sai số trong quá trình đo đạc trước đây.

Ngày 13/8/2020, UBND huyện T ban hành Quyết định số 4880/QĐ- UBND với nội dung công nhận quyền sử dụng đất diện tích 42,6m2, loại đất trồng cây lâu năm (CLN) có nguồn gốc từ đất vườn của ông Phạm Viết H tại thửa đất số 206, tờ bản đồ số 03-2019 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam duyệt ngày 09/7/2019. Đồng thời thu hồi diện tích trên và diện tích 2.955m2, trong đó 200m2 đất ở nông thôn (ONT) và 2.755m2 đất trồng cây lâu năm (CLN) có nguồn gốc từ đất vườn của hộ ông Phạm Viết H tại thửa đất số 206 (toàn bộ thửa đất), tờ bản đồ số 03-2019 được Sở Tài nguyên và Môi trường duyệt ngày 09/7/2019 (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 1318 QSDĐ/Q1 tại thửa số 225, tờ bản đồ số 50 được UBND huyện T cấp ngày 28/12/2000).

Về diện tích đất ở thu hồi: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 1318 ngày 28/12/2000 do UBND huyện T cấp cho hộ ông Phạm Viết H chưa xác định diện tích đất ở, tại thời điểm thu hồi đất hộ ông H không có một trong các loại giấy tờ được quy định tại khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật đất đai và Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Mặt khác, Hội đồng tư vấn xét nguồn gốc đất, thời điểm sử dụng đất cũng xác định thời điểm sử dụng đất của hộ ông H đối với thửa đất nêu trên là sau ngày 18/12/1980 và trước ngày 15/10/1993; đồng thời, vị trí thửa đất thu hồi của hộ ông H có mặt tiếp giáp với trục giao thông chính liên xã (đường ĐH3 nội các xã T, Tam Thanh, Tam Sơn, Tam Trà) và hộ ông H gồm 02 nhân khẩu là ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G; do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 5 Điều 103, khoản 2 Điều 143 Luật đất đai 2013, khoản 3 Điều 6, điểm c khoản 1 Điều 4 và điểm a khoản 1 Điều 5 Quyết định số 12/2015/QĐ-UBND ngày 01/6/2015 của UBND tỉnh Quảng Nam quy định hạn mức giao, hạn mức công nhận quyền sử dụng đất và diện tích tối thiểu được tách thửa đối với các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ban hành kèm Quyết định số 12/2015/QĐ-UBND ngày 01/6/2015 của UBND tỉnh Quảng Nam thì diện tích đất ở tại thửa đất số 206, tờ bản đồ số 03-2019 được xác định 200m2 là đúng theo quy định của pháp luật.

Như vậy, việc ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G yêu cầu hủy Quyết định số 4880/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của UBND huyện T là không có căn cứ pháp luật.

2. Đối với yêu cầu hủy Quyết định số 4881/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của UBND huyện T về việc công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất tại thửa đất số 223, thuộc mảnh đo đạc chỉnh lý bản đồ địa chính số 03-2019 (gọi tắt là tờ bản đồ số 03-2019):

a. Quá trình kê khai đăng ký sử dụng đất qua các thời kỳ:

- Theo hồ sơ 299/TTg xã T thể hiện: Tại thửa đất số 223, tờ bản đồ số 03- 2019, diện tích 3.176,2m2 hộ ông Phạm Viết H không có kê khai đăng ký.

- Theo hồ sơ 64/CP xã T thể hiện: Thửa đất số 223, tờ bản đồ số 03-2019, diện tích 3.176,2m2 thuộc thửa số 221, tờ bản đồ số 50, diện tích 7.686m2, loại đất hoang, chưa ai đăng ký sử dụng. Theo bản đồ đo đạc phục vụ dự án thì thửa đất số 221, tờ bản đồ số 50 (hồ sơ 64/CP) đã được tách ra thành nhiều thửa nhỏ cho nhiều hộ quản lý, sử dụng, trong đó có thửa đất số 223, tờ bản đồ số 03- 2019 của hộ ông H. Quá trình đo vẽ bản đồ thực hiện dự án có sự phối hợp với chủ sử dụng đất, việc đo đạc là đúng diện tích, đúng hiện trạng sử dụng, ông H và các chủ sử dụng đất của các thửa đất nói trên (tách ra từ thửa 221, tờ bản đồ 50 (hồ sơ 64/CP)) đều thống nhất với kết quả diện tích đo đạc được thể hiện tại các Phiếu xác nhận kết quả đo đạc.

b. Quá trình thu hồi đất thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng:

Theo Biên bản họp hội đồng tư vấn ngày 30/8/2014 của UBND xã T xác định là đất có nguồn gốc là tự khai hoang và thời điểm sử dụng được xác định là trước 01/7/2004. Về quá trình sử dụng đất, tại cuộc họp lấy ý kiến của khu dân cư về nguồn gốc và thời điểm sử dụng thì những hộ dân cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng thửa đất nói trên đều xác nhận hộ ông H sử dụng vào mục đích trồng keo lá tràm kể từ thời điểm khai hoang đến nay. Tại thời điểm kê khai, kiểm đếm hiện trạng thì trên đất đang trồng keo lá tràm, đường kính cây 1-5cm, với số lượng khoảng 1.430 cây, ngoài ra có số lượng ít cây mận và cây đào.

Trên cơ sở đó, ngày 13/8/2020, UBND huyện T ban hành Quyết định số 4881/QĐ-UBND với nội dung công nhận quyền sử dụng đất diện tích 3.176,2m2, loại đất trồng cây lâu năm (CLN) cho hộ ông Phạm Viết H tại thửa đất số 223 (toàn bộ thửa đất), tờ bản đồ số 03-2019, đồng thời thu hồi toàn bộ diện tích nói trên để thực hiện dự án.

Tại thời điểm thu hồi đất, hộ ông H không có một trong các loại giấy tờ được quy định tại khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật đất đai năm 2013 và Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, do đó căn cứ theo các quy định tại khoản 4 Điều 11 Luật đất đai năm 2013 và khoản 1 Điều 2 Nghi định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ thì việc UBND huyện T xác định loại đất cây lâu năm tại thửa đất số 223, tờ bản đồ số 03-2019 là đúng theo quy định của pháp luật.

Như vậy, việc ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G yêu cầu hủy Quyết định số 4881/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của UBND huyện T là không có căn cứ pháp luật.

Trên cơ sở các quyết định công nhận quyền sử dụng đất và thu hồi đất nêu trên, UBND huyện T thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G đảm bảo đầy đủ, đúng trình tự, thủ tục và đúng theo quy định của pháp luật, do đó việc ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G yêu cầu hủy Quyết định số 5137/QĐ-UBND ngày 19/8/2020 của UBND huyện T là không có căn cứ.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 120/2022/HC-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:

[1]. Căn cứ khoản 2 Điều 173 Luật tố tụng hành chính năm 2015;

Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu của người khởi kiện ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G về việc: Hủy Quyết định số 4880/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của Ủy ban nhân dân huyện T về việc công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T (Giai đoạn 1- 129 ha) tại xã T, huyện T; buộc UBND huyện T xác định lại loại đất ở và ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông (bà) Phạm Viết H và Trần Thị G đối với thửa đất số 206, tờ bản đồ số 50 tại thôn G, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam theo đúng quy định pháp luật.

[2]. Căn cứ Điều 3; Điều 116, khoản 1 Điều 173, khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 348 Luật tố tụng hành chính năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G về việc:

- Hủy Quyết định số 4881/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của Ủy ban nhân dân huyện T về việc công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T (Giai đoạn 1-129 ha) tại xã T, huyện T.

- Hủy Quyết định số 5137/QĐ-UBND ngày 19/8/2020 của Ủy ban nhân dân huyện T về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông (bà) Phạm Viết H và Trần Thị G để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T - đợt 8 tại xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

- Buộc UBND huyện T xác định lại loại đất ở và ban hành quyết định thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông (bà) Phạm Viết H và Trần Thị G đối với thửa đất số 223, tờ bản đồ số 50 tại thôn G, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam theo đúng quy định pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí và thông báo về quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/10/2022, người khởi kiện ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện ông Phạm Viết H, bà Trần Thị G do bà Nguyễn Thị Hoài T đại diện theo ủy quyền thì tại đơn xin xét xử vắng mặt bà T giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện và yêu cầu kháng cáo. Tại đơn kháng cáo người khởi kiện ông Phạm Viết H, bà Trần Thị G cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không đảm bảo quyền lợi cho người khởi kiện nên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G về việc hủy Quyết định số 4881/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 và Quyết định số 5137/QĐ-UBND ngày 19/8/2020 của UBND huyện T; buộc UBND huyện T xác định lại loại đất ở và ban hành quyết định thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G đối với thửa đất số 223, tờ bản đồ số 50 tại thôn G, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng, về phần thủ tục tố tụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm đảm bảo đúng quy định pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về phần thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện có đơn xin xét xử vắng mặt; người bị kiện UBND huyện T có đơn xin xét xử vắng mặt. Đây là phiên tòa phúc thẩm mở lần thứ hai, các đương sự đều được triệu tập hợp lệ. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử xử vắng mặt các đương sự nói trên. Căn cứ điểm a khoản 2, khoản 4 Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về phần nội dung: Theo hồ sơ 299/TTg của UBND xã T thì thửa đất số 223, tờ bản đồ số 03 – 2019, diện tích 3.176,2 m2 hộ ông Phạm Viết H không có kê khai đăng ký. Theo hồ sơ 64/CP thì thửa đất số 233, tờ bản đồ số 03-2019, diện tích 3.176,2 m2 thuộc thửa đất số 221, tờ bản đồ số 50, diện tích 7.686 m2, loại đất hoang, chưa ai đăng ký sử dụng. Theo bản đồ đo đạc phục vụ dự án thì thửa đất số 221, tờ bản đồ số 50 (hồ sơ 64/CP) đã được tách ra thành nhiều thửa nhỏ cho nhiều hộ quản lý sử dụng; trong đó có thửa đất số 223, tờ bản đồ số 03- 2019 của hộ ông H. Quá trình đo vẽ bản đồ thực hiện dự án có sự phối hợp với chủ sử dụng đất. Việc đo đạc là đúng diện tích, đúng hiện trạng sử dụng, ông H và các chủ sử dụng đất đều thống nhất với diện tích đo đạc được thể hiện tại Phiếu xác nhận kết quả đo đạc và tại Biên bản kê khai và kiểm đếm hiện trạng ngày 19/6/2019; ông Phạm Viết H cũng ký xác nhận diện tích thửa đất số 223 là 3.176,2 m2. Việc ông H cho rằng, thửa đất số 221, diện tích 7.686m2 được gia đình ông sử dụng từ năm 1978 vào mục đích để ở, nhưng ông H không có kê khai, đăng ký theo hồ sơ 299/TTg và 64/CP; hiện trạng thửa đất số 223 chủ yếu là trồng keo lá tràm, không có nhà ở của ông H, ông H chỉ có nhà ở trên thửa đất số 206 đã được thu hồi, bồi thường.

Tại Phiếu lấy ý kiến khu dân cư ngày 28/8/2019 thể hiện, thửa đất số 223 của ông Phạm Viết H tại thôn G có nguồn gốc do hộ ông H khai hoang để trồng keo lá tràm, sử dụng ổn định liên tục từ trước ngày 01/7/2004. Do đó, UBND huyện T thu hồi thửa đất số 223, diện tích 3.176,2 m2 loại đất trồng cây lâu năm là đúng với diện tích, loại đất. Đồng thời, UBND huyện T thực hiện về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G là đúng theo quy định pháp luật.

Từ những chứng cứ đã được phân tích trên cho thấy, bản án sơ thẩm tuyên xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G về việc yêu cầu hủy Quyết định số 4881/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của UBND huyện T về việc công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T (giai đoạn 1-129ha) tại xã T, huyện T; hủy Quyết định số 5137/QĐ-UBND ngày 19/8/2020 của UBND huyện T về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T – đợt 8 tại xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam và buộc UBND huyện T xác định lại loại đất ở, ban hành quyết định thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G đối với thửa đất số 223, tờ bản đồ số 50 tại thôn G, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam theo quy định của pháp luật.

Quyết định trên của bản án sơ thẩm là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật nên bác kháng cáo của người khởi kiện ông Phạm Viết H, bà Trần Thị G và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[3]. Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên người khởi kiện ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G phải chịu án phí hành chính phúc thẩm. Nhưng xét, ông H và bà G là người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí nên được miễn.

Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên không xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.

1. Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Phạm Viết H, bà Trần Thị G và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Áp dụng Điều 3, Điều 116, khoản 1 Điều 173, khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Bác nội dung đơn khởi kiện của ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G về yêu cầu:

- Hủy Quyết định số 4881/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của Ủy ban nhân dân huyện T về việc công nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T (Giai đoạn 1-129 ha) tại xã T, huyện T.

- Hủy Quyết định số 5137/QĐ-UBND ngày 19/8/2020 của Ủy ban nhân dân huyện T về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp T - đợt 8 tại xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

- Buộc UBND huyện T xác định lại loại đất ở và ban hành quyết định thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G đối với thửa đất số 223, tờ bản đồ số 50 tại thôn G, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam theo đúng quy định pháp luật.

2. Về án phí: Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho ông Phạm Viết H và bà Trần Thị G.

3. Các phần quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

77
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính lĩnh vực quản lý đất đai số 114/2023/HC-PT

Số hiệu:114/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 20/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về