Dưới đây là Tổng hợp 5 bản án người dân khiếu kiện quyết định hành chính về thuế được Tòa tuyên thắng kiện, các bạn cùng tham khảo.
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
+ Trích dẫn nội dung: “Hộ ông Nguyễn Đình L sử dụng diện tích đất thuộc thửa đất số 158, tờ bản đồ số 52 tại xã H, thành phố B do liên hiệp các xí nghiệp Cà phê V cấp ngày 11-12-1990. Tại Quyết định số 814/QĐ-UBND ngày 04-12-2015 của UBND thành phố B về việc công nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Đình L. Tại Thông báo ngày 08-4-2016 của Chi cục thuế thành phố B thông báo về việc hộ ông Nguyễn Đình L phải thực hiện nghĩa vụ tài chính 40% tiền sử dụng đất, đối với diện tích đất đang sử dụng, tương ứng với số tiền là 238.720.000 đồng.”
+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đình L: Hủy Thông báo nộp tiền sử dụng đất ngày 08/4/2016 của Chi cục thuế thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đối với hộ ông Nguyễn Đình L.
+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội .
+ Trích dẫn nội dung: “Năm 2012, Cty TNHH PN ký hợp đồng mua gỗ có nguồn gốc nhập khẩu từ Lào của các Công ty khác nhập khẩu về để sản xuất rồi xuất khẩu ra nước ngoài. Ngày 25/12/2012 và ngày 16/1/2013, Cty đã làm thủ tục hải quan tại Chi cục HQBHN để xuất khẩu 2 lô hàng gỗ sang Đài Loan. Cty đã nộp đầy đủ các chứng từ liên quan và khai chi tiết, rõ ràng là gỗ có nguồn gốc nhập khẩu từ Lào (thuộc trường hợp không phải nộp thế xuất khẩu). Tuy nhiên, Chi cục HQBHN vẫn yêu cầu Công ty tạm nộp thuế xuất khẩu cho 2 lô hàng là 296.678.613 đồng. Để đảm bảo tiến độ xuất khẩu, Cty đã nộp đủ số tiền thuế xuất khẩu nêu trên và sau đó có đơn đề nghị cơ quan hải quan hoàn thuế kèm hồ sơ xin hoàn thuế xuất khẩu theo quy định tại khoản 3 điều 2 thông tư 193/2012 của Bộ Tài chính nhưng Công ty chỉ được hoàn 143.980.402 đồng.”
+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH PN đề nghị hủy Quyết định số 136/QĐ-HQHN ngày 05/3/2015 của Cục trưởng Cục Hải quan thành phố Hà Nội.
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Trích dẫn nội dung: “Theo nội dung Quyết định số 2549/QĐ-CT của Cục trưởng Cục thuế tỉnh Bình Dương về việc xử ỉý về thuế, xử phạt vi phạm hành chính qua kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế của Công ty S, thời kỳ kiểm tra năm 2008-2013: Truy thu thuế TNDN: 1.810.086.769 đồng (Năm 2012-2013). Tiền chậm nộp: 773.252.856 đồng. Phạt vi phạm hành chính: 324.138.717 đồng. Công ty S không đồng ý với Quyết định số 2549/QĐ- CT, nên đã có Đơn khiếu nại đến Cục thuế tỉnh Bình Dương ngày 25/5/2016. Cục trưởng Cục thuế tỉnh Bình Dương không chấp nhận yêu cầu và ban hành tiếp Quyết định số 3993/QĐ-CT tiếp tục bác yêu cầu chính đáng của Công ty S.”
+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty S; Hủy Quyết định số 2549/QĐ-CT ngày 20/5/2016 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh Bình Dương về việc xử lý thuế, xử phạt vi phạm hành chính qua kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế.
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Th.
+ Trích dẫn nội dung: “Gia đình ông Lê Ngọc S được Nhà nước cấp lô đất tại Khu phố 1, phường Hàm Tiến, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Th với diện tích 240m2. Khi di chuyển từ nơi ở cũ (nơi bị biển xâm thực) đến nơi ở mới, gia đình ông S không nhận tiền đền bù đất cũng như vật kiến trúc. Nay ông làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ngày 07/01/2020, ông nhận được Thông báo LTB 2071501-TK0000217/TB-CCT ngày 06/01/2020 về việc yêu cầu ông nộp tiền sử dụng đất của Chi cục trưởng - Chi cục thuế thành phố Phan Thiết với số tiền 365.760.000đồng.”
+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Ngọc S. Hủy Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2071501-TK0000217/TB-CCT ngày 06/01/2020 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Th.
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.
+ Trích dẫn nội dung: “Năm 2003 – 2004 Hợp tác xã vận tải T đưa vào quyết toán chi phí lãi tiền vay ngân hàng để đóng mới xà lan của xã viên Hợp tác xã là chi phí hợp lý không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp theo qui định. Đến ngày 07/6/2005, Đoàn kiểm tra Chi cục thuế huyện T đến kiểm tra quyết toán thuế năm 2003-2004 cũng chấp thuận chi phí lãi tiền vay của xã viên là chi phí hợp lý không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp nên các năm sau đó từ năm 2005 đến năm 2010, Hợp tác xã tiếp tục hoạch toán chi phí trả tiền lãi vay để đóng mới xà lan của xã viên vào chi phí hợp lý không phải chịu thuế là 3.994.835.475 đồng. Đến ngày 27/9/2011 Đoàn thanh tra của Cục thuế tỉnh Tiền Giang đến thanh tra việc chấp hành pháp luật thuế tại hợp tác xã các năm từ 2005 đến năm 2010 lại cho rằng chi phí lãi tiền vay nói trên là chi phí không hợp lý và phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.”
+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Hợp tác xã T về việc yêu cầu hủy quyết định số 01/QĐ-CCT ngày 04/01/2012 của Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện T về việc xử lý về thuế, xử phạt vi phạm hành chính qua thanh tra việc chấp hành pháp luật thuế.