Bản án 79/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 79/2023/HS-ST NGÀY 18/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 4 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 56/2023/TLST- HS ngày 17 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Thanh P; Giới tính: Nam; Sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: C2/47, ấp 3, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị U; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 29/8/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh ra Quyết định số 492/QĐ-TA về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 15 tháng đối với Lê Thanh P về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 30/8/2017 chấp hành xong Quyết định.

- Ngày 10/9/2019, Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1871/QĐ-XPVPHC xử phạt Lê Thanh P 2.500.000 đồng vì có lời nói, hành động đe doạ, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ. Bị cáo chấp hành xong Quyết định ngày 20/7/2020.

- Ngày 04/02/2021, Uỷ ban nhân dân xã Đa Phước ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 317/QĐ-XPVPHC xử phạt Lê Thanh P 2.500.000 đồng về hành vi tàng trữ hung khí. Bị cáo chấp hành xong Quyết định ngày 09/02/2021.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/11/2022. (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 09h00 phút ngày 12/10/2022, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp Công an xã Đ, huyện B tiến hành kiểm tra nhà địa chỉ C2/47 ấp 3, xã Đ, huyện B, phát hiện tại vị trí nền nhà, phía bên trái cánh cửa phòng ngủ có 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, bên trong vỏ bao thuốc lá có 05 (năm) gói nylon chứa tinh thể không màu, nên lập biên bản sự việc, thu giữ, niêm phong vật chứng trên.

Kết luận giám định số 5891/KL-KTHS ngày 19/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu trong 05 gói nylon được niêm phong trong bì thư dán kín, qua giám định có khối lượng 2,0516g (hai phẩy không năm một sáu gam) là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine.

Ngày 29/11/2022, Lê Thanh P đến Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh đầu thú, khai nhận: Bị cáo là người nghiện ma tuý, số ma tuý Công an thu giữ là của một mình P mua, cất giữ để sử dụng, gia đình bị cáo không liên quan, cụ thể: Khoảng 20 giờ ngày 11/10/2022, P sử dụng số điện thoại 0704433446 gọi cho người đàn ông tên M (không rõ lai lịch, không nhớ số điện thoại) đặt mua 500.000 đồng ma tuý đá. Một lúc sau, M đến nhà P và bán cho P 01 gói nylon chứa ma tuý đá với giá 500.000 đồng. Sau đó, P mang vào nhà tự chia ra 5 gói nylon chứa ma tuý đá nhỏ rồi bỏ trong bao thuốc lá hiệu Jet đặt tại nền nhà, sát vách tường, phía bên trái cánh cửa phòng ngủ để dành sử dụng, còn một ít rời ra P sử dụng. Đến 09 giờ ngày 12/10/2022, P đang ở nhà thấy cơ quan Công an đến kiểm tra, do đã sử dụng ma tuý nên hoảng sợ bỏ chạy và mang theo điện thoại nhưng đã làm rơi mất. Sau khi về nhà thì biết Công an đã phát hiện, thu giữ số ma tuý đá của mình nên ngày 29/11/2022 P đến Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh đầu thú. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành cho P chỉ điểm, xác định nơi cất giấu, phân chia ma tuý phù hợp với lời khai nhận nêu trên.

Cáo trạng số 66/CT-VKSBC ngày 15/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Bị cáo Lê Thanh P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Thanh P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 03 năm tù, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư được niêm phong bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 (một) hộp quẹt màu trắng; 01 (một) hộp quẹt màu vàng; 01 (một) vỏ hộp thuốc lá hiệu Jet; 01 (một) bình bơm ga hột quẹt. Lưu cùng hồ sơ vụ án 01 đĩa ghi âm, ghi hình lời khai nhận tội của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Ngày 12/10/2022 tại trước địa chỉ C2/47 Ấp 3, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Thanh P đã có hành vi tàng trữ 2,0516 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng thì bị Công an phát hiện. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Lê Thanh P đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tự nguyện ra đầu thú, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên cần xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân bị xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4] Đối với người tên M (không rõ lai lịch) đã bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh tiếp tục xác minh, khi làm rõ xử lý sau.

[5] Đối với bà Nguyễn Thị U (mẹ của bị cáo): Bà U không biết bị cáo tàng trữ ma túy, không nghiện ma tuý và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên không có cơ sở để xử lý bà U.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 05 (năm) gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine (còn lại sau giám định) là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 hộp quẹt màu trắng; 01 hộp quẹt màu vàng; 01 vỏ hộp thuốc lá hiệu Jet; 01 bình bơm ga hộp quẹt là những vật dụng bị cáo dùng để sử dụng ma túy nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 đĩa ghi âm, ghi hình lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo: Dữ liệu điện tử này tiếp tục lưu cùng hồ sơ vụ án.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Thanh P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Lê Thanh P: 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/11/2022.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư được niêm phong dán kín bên ngoài ghi vụ số 1196/22 và các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị U, Điều tra viên, Phó Trưởng Công an xã và hình dấu của Công an xã Đ, huyện B, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 (một) hộp quẹt màu trắng; 01 (một) hộp quẹt màu vàng; 01 (một) vỏ hộp thuốc lá hiệu Jet; 01 (một) bình bơm ga hộp quẹt.

(Các vật chứng trên đang giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 13/3/2023 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh).

- Lưu cùng hồ sơ vụ án: 01 đĩa ghi âm, ghi hình lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo (Vật chứng này đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án).

4. Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Lê Thanh P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

5. Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo Lê Thanh P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về