Bản án 79/2017/HNGĐ-ST ngày 31/08/2017 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 79/2017/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2017 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 31/8/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 349/2017/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2017 về việc “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2017/QĐXX-ST ngày 16/8/2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Đặng Ngọc T, sinh năm 1991

Trú tại: T C Đ, phường B, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Bị đơn: Ông Nguyễn Trần Đăng H, sinh năm 1990

Trú tại: A D V, phường B, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

(Bà T có mặt, ông H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai của bà T trình bày thì:

Bà và ông H đăng kí kết hôn vào năm 2013, tại Ủy ban nhân dân phường 2, thành phố Đ. Hôn nhân tự nguyện và có tổ chức lể cưới. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống tại nhà bố mẹ ông H ở A D V, phường B, thành phố Đ. Vợ chồng sống hạnh phúc được 6 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông H ham chơi, cờ bạc, không có trách nhiệm gia đình, ngoài ra ông H chưởi bới đánh đập bà. Hiện vợ chồng đang sống ly thân. Nay xác định tình cảm không còn nên bà xin được ly hôn với ông H.

Về con chung: Có 01 con chung Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 12/02/2014. Ly hôn, bà yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có

Về nợ chung: Không có nợ chung.

Theo bản tự khai của ông Nguyễn Trần Đăng H trình bày thì:

Việc kết hôn và thời gian chung sống như bà T trình bày là đúng. Cuộc sống chung hạnh phúc gần 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông chơi bài bạc, bà T không làm tròn trách nhiệm của người vợ nên vợ chồng thường xuyên cải vã nhau. Hiện bà T đã về nhà mẹ ruột sinh sống. Nay bà T xin ly hôn thì ông không đồng ý.

Về con chung: Có 01 con chung Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 12/02/2014. Ly hôn, bà T yêu cầu được nuôi con, ông đồng ý. Ông tự thực hiện nghĩa vụ làm cha với con.

Về tài sản chung: Không có

Về nợ chung: Không có nợ chung.

Tại phiên tòa: Bà T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình. Ông H có đơn xin hòa giải và xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ có ý kiến về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, hội đồng xét xử, đương sự và đề xuất: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T. Cho bà T và ông H được ly hôn. Giao con cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Qua lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng nhận định:

[1] Bà T và ông H  kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông H là hợp pháp.

[2] Theo bà T khai trong quá trình chung sống do ông H sống không có trách nhiệm với gia đình, ham mê cờ bạc, thường xuyên đánh đập, chửi bới bà. Hiện bà đã đưa con về sống nhờ bên gia đình cha mẹ ruột. Nay tình cảm vợ chồng không còn, bà xin được ly hôn.

Ông H thừa nhận vợ chồng mâu thuẫn là do ông chơi bời cờ bạc, bà T không làm tròn trách nhiệm làm vợ. Ông H không đồng ý ly hôn.

[3] Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T và ông H đã kéo dài nhiều năm như việc các đương sự thừa nhận. Qua xác minh tại địa phương thì được biết vợ chồng bà T hiện không còn sống chung một nhà. Hiện tại vợ chồng đã sống ly thân. Bà T xin ly hôn, ông H yêu cầu đoàn tụ nh không đưa ra được giải pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Ông H không đến Tòa để tham gia hòa giải, xét xử thể hiện không có thiện chí đoàn tụ. Xét mục đích hôn nhân giữa bà T và ông H không đạt được. Vì vậy,chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T. Xử cho bà T và ông H được ly hôn là phù hợp với quy định của pháp luật .

[4] Về con chung: Có 01 con chung Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 12/02/2014. Ly hôn, bà T yêu cầu được nuôi con, ông H đồng ý. Xét giao con cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật và nguyện vọng của hai bên.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Cả hai xác định không có nên không đề cập. định.

[7] Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1.Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đặng Ngọc T  đối với ông Nguyễn Trần Đăng H. Cho bà Đặng Ngọc T và ông Nguyễn Trần Đăng H được ly hôn.

2.Về con chung: Giao con Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 12/02/2014 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn và thay đổi nuôi con được thực hiện theo quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về án phí: bà T  phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm (Được trừ vào số tiền 300.000đồng bà T đã tạm nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0001469 ngày 27/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ).

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bà T được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Ông H vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận, hoặc niêm yết bản án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2017/HNGĐ-ST ngày 31/08/2017 về xin ly hôn

Số hiệu:79/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về