14/09/2022 11:41

Tuyển tập bản án về chia thừa kế đối với con nuôi

Tuyển tập bản án về chia thừa kế đối với con nuôi

“Tôi muốn tìm các bản án có nội dung chia thừa kế đối với con nuôi để tôi tham khảo. Xin cảm ơn!”_Chị Oanh (Hà Tĩnh)

Chào chị, đối với yêu cầu của chị, Ban biên tập xin gửi tới chị một số bản án tiêu biểu về chia thừa kế đối với con nuôi sau:

1. Bản án về yêu cầu công nhận quyền thừa kế và tranh chấp di sản thừa kế 69/2018/DSPT

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

+ Trích dẫn nội dung: năm 1979, bà Đỗ Thị T5 (tên gọi khác Đỗ Thị Thanh T5), sinh năm 1932 (không có chồng) nhận chị Đỗ Đức Phương C3 làm con nuôi nhưng không thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án phía gia đình bị đơn thừa nhận chị C3 được bà T5 nhận nuôi năm 1979. Quá trình nuôi dưỡng, gia đình có hỗ trợ kinh phí để bà T5 chăm sóc, nuôi dưỡng chị C3 đến tuổi trưởng thành. Khi chị C3 đi học nghề tại thành phố Hồ Chí Minh, bà T5 bỏ tiền nuôi ăn học và có sự hỗ trợ kinh phí từ phía gia đình bị đơn (BL06, 65, 186). Mối quan hệ mẹ nuôi, con nuôi giữa bà T5 và chị C3 tồn tại trên thực tế, được phía gia đình bị đơn thừa nhận. Đồng thời căn cứ vào sổ hộ khẩu (BL238) gia đình bà Đỗ Thị T5 do Công an thị xã H (nay là Công an thành phố H) cấp năm 1995, thể hiện chị C3 có quan hệ với bà T5 là con, ngoài chị C3 thì bà T5 không có con nào khác.”

+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận kháng cáo của anh Thiều Văn C1 (do ông Phan Văn C2 là người đại diện theo ủy quyền) và chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.

2. Bản án 241/2020/DS-PT ngày 21/08/2020 về tranh chấp di sản thừa kế

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

+ Trích dẫn nội dung: "Xét mối quan hệ nuôi con nuôi thực tế: Khi xem xét mối quan hệ nuôi con nuôi thực tế thì cần xem xét ý kiến của những người dân sống lâu năm tại địa phương về thực chất mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; ý chí của người nhận nuôi trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc; trách nhiệm của con nuôi đối với cha, mẹ nuôi (khi cha mẹ nuôi còn sống, trách nhiệm chăm sóc của con nuôi đối với cha, mẹ nuôi khi cha, mẹ nuôi đau ốm (nếu có); việc lo ma chay, tang lễ khi cha mẹ nuôi chết."

+ Kết quả giải quyết: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Lê Văn L, bà Lê Thị V; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 82/2019/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

3. Bản án 78/2018/DSPT ngày 07/09/2018 về tranh chấp chia thừa kế

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh B.

+ Trích dẫn nội dung: "mặc dù Tòa án không thu thập được giấy khai sinh của ông T cũng như mục kê khai về thủ tục nhận nuôi con nuôi nhưng xét về quan hệ nuôi dưỡng và chăm sóc giữa ông T và cụ Tr, cụ T thì việc Tòa án thị xã T xác định ông T là con nuôi là phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, ông T đủ điều kiện là diện trong hàng thừa kế hợp pháp của cụ Tr, cụ T. Như vậy, kháng cáo của bà T và anh Thanh T khi cho rằng bản án chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất cho ông T là không đúng với quy định về con nuôi là không có cơ sở chấp nhận."

+ Kết quả giải quyết: Hủy bản án sơ thẩm số 15/2017/DSST ngày 28/7/2017 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh B và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh B giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

4. Bản án 32/2019/DS-PT ngày 26/04/2019 về tranh chấp chia di sản thừa kế

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.

+ Trích dẫn nội dung: "Bản án sơ thẩm căn cứ lời khai nguyên đơn, bị đơn về việc cháu V là con nuôi của ông V1, bà L. Qua xem xét tài liệu có trong hồ sơ vụ án, không có tài liệu chứng minh cháu V là con nuôi ông V1, bà L theo quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật nuôi con nuôi và Điều 23 Nghị Định 19 ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định về đăng ký nuôi con nuôi thực tế. Vì vậy, cháu V không được công nhận là con nuôi của ông V1, bà L. Ở giai đoạn sơ thẩm bà L xuất trình Giấy khai sinh của cháu V sinh ngày 24/11/2011 có cha là ông Lê Quang V1, mẹ là Phan Thị L (Bà L có quan hệ với cháu V là mẹ đẻ). Quá trình giải quyết vụ án bà L thừa nhận không phải là con đẻ của ông V1, bà L mà chỉ là con nuôi. Anh Đ yêu cầu giám định AND đối với cháu V, nhưng bà L không đồng ý, ông V1 đã chết việc lấy mẫu giám định là không thể thực hiện được."

+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận nội dung bổ sung, thay đổi kháng nghị của VKSND tỉnh Thanh Hóa và một phần kháng cáo của anh Lê Nguyễn Minh Đ. Sửa bản án sơ thẩm số 36/2017/DS-ST ngày 26 tháng 12 năm 2017 của Toà án nhân dân TP H.

5. Bản án 119/2019/DS-PT ngày 22/05/2019 về tranh chấp di sản thừa kế

+ Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

+ Trích dẫn nội dung: "Chị Lê Thị N là con gái của bà Lê Thị O, chị N được vợ chồng ông Lê Thiên G (anh trai bà O) và bà Nguyễn Thị D nuôi từ nhỏ (năm 1973) đến lúc trưởng thành và lập gia đình. Việc bà D, ông Gcó làm thủ tục nhận nuôi con nuôi đối với chị N theo quy định của pháp luật hay không thì địa phương và chị N đều không nắm được, do toàn bộ sổ sách liên quan đến hộ tịch từ thời điểm trước năm 2000 (cụ thể là sổ nhận nuôi, đăng ký con nuôi) đã thất lạc. Trên các giấy tờ như sổ đăng ký hộ tịch, hộ khẩu, giấy chứng nhận đăng ký nhân khẩu thường trú năm 1980 đều thể hiện chị N có mối quan hệ với ông G, bà D là con. Chị N cũng đã đổi từ họ Bùi sang họ Lê là họ của ông G. Khi ông G, bà D chết chị N cũng là người đứng ra chịu tang theo phong tục. Bản án sơ thẩm nhận định chị N là con nuôi của bà D, ông G và thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông bà là có căn cứ."

+ Kết quả giải quyết: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị N về việc yêu cầu anh Lê Thiên Q và anh Lê Thiên T trả lại cho chị di sản thừa kế của ông Lê Thiện Thuận và bà Nguyễn Thị D là thửa đất số 230, tờ bản đồ số 04 năm 1986, diện tích 370m2 tại Thôn L, xã Đ, huyện H, thành phố Hà Nội.

6. Bản án 229/2019/DS-PT ngày 23/08/2019 về đòi lại di sản thừa kế là quyền sử dụng đất và chia thừa kế quyền sử dụng đất

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

+ Trích dẫn nội dung: "Tại đơn kháng cáo, ông H1 và các đồng nguyên đơn đặt ra vấn đề chị D2 không phải là con ruột, cũng không có căn cứ cho là con nuôi của ông Sơn. Nhận thấy tại “Giấy khai sinh” do ông Võ Thanh Sơn khai đã xác định Võ Thị Mỹ D2 là con ruột của ông Võ Thanh Sơn và bà Trần Mỹ Thiện. Hơn nữa, qua đơn khởi kiện, lời trình bày của phía nguyên đơn cũng xác định “ông Sơn có một người con tên Võ Thị Mỹ D2”. Do đó, lời khai nại của các nguyên đơn tại đơn kháng cáo về việc chị D2 không phải là con của ông Sơn là không có căn cứ."

+ Kết quả giải quyết: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn H1, ông Võ Thanh D1, bà Võ Thanh N, bà Võ Thị Thanh T và bà Võ Thị Mỹ Hà về việc đòi lại di sản thừa kế là quyền sử dụng đất và chia thừa kế quyền sử dụng đất đối với căn nhà và đất tọa lạc tại số 33, ấp 1, xã Tắc Vân, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

7. Bản án 169/2021/DS-PT ngày 14/05/2021 về tranh chấp thừa kế tài sản

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

+ Trích dẫn nội dung: Theo Công văn số 165/AH-QLC ngày 18/9/2018 công An huyện TT thể hiện thông tinh lý lịch của Bà Nguyễn Thị L cụ thể như sau: về nhân thân, lai lịch Bà Nguyễn Thị L sinh năm 1969: Bà Nguyễn Thị L được bà Hà Thị B, sinh năm 1920; ĐKTT: ấp B2, xã Bình Phong Thạnh, huyện TT, tỉnh Long An nhận làm con nuôi lúc bà L được 10 tháng tuổi. Theo hồ sơ hộ khẩu lưu trữ tại Công An huyện, trong bản khai danh sách nhân khẩu ngày 11/01/1977 bà Hà Thị B có khai con là Nguyễn Thị L, sinh năm 1969; ngày 03/7/1981 bà B đến Ủy ban nhân dân xã Bình Phong Thạnh, huyện Bến Thủ, tỉnh Long An (nay là xã BT, huyện TT) đăng ký khai sinh cho con là Nguyễn Thị L sinh ngày 15/11/1969 ( hồ sơ hộ tịch số 319/1981, quyển số 1), cha là: Nguyễn Văn C, sinh năm 1920, nơi thường trú: quân 10, Tp Hồ Chí Minh; mẹ: Hà Thị B, sinh năm 1920, ĐKTT: 4/7 Bình Lương, Bình Phong Thạnh, Bến Thủ. Bà L sinh sống cùng bà Ba đến năm 1987 bỏ địa phương, năm 1988 công an xã Bình Phong Thạnh xỏa hộ khẩu Bà Nguyễn Thị L.”

+ Kết quả giải quyết: Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 85/2020/DS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh Long An. Giao toàn bộ hồ sơ về Tòa án nhân dân huyện TT giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Nguyễn Sáng
2804

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: info@thuvienphapluat.vn