Bản án 47/2017/HNGĐ-ST ngày 29/08/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 47/2017/HNGĐ-ST NGÀY 29/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 14 và ngày 29 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 137/2017/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2017 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 141/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Tr, sinh năm 1993 (có mặt).

Địa chỉ: Số B, Quốc lộ 1, khóm M, phường N, thành phố ST, tỉnh ST.

Địa chỉ tạm trú: Phòng trọ 1A, nhà trọ UT, khu phố KL, phường TPK, thị xã TU, tỉnh BD.

2. Bị đơn: Ông Hồ Tấn Ph, sinh năm 1993 (có mặt).

Địa chỉ: Số B, Quốc lộ 1, khóm M, phường N, thành phố ST, tỉnh ST.

Địa chỉ tạm trú: Số Z, đường T, khóm P, phường E, thành phố ST, tỉnh ST.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/6/2017, trong quá trình giải quyết vụ án cũng nhƣ tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Tr trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim Tr và ông Hồ Tấn Ph kết hôn vào năm 2015, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, được Ủy ban nhân dân phường N, thành phố ST, tỉnh ST cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 17/6/2015. Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc nhưng thời gian sau đã phát sinh nhiều mâu thuẫn. Đặc biệt là vào cuối tháng 11/2016 do bà Tr có con nhỏ nên ra quán phụ bán với mẹ ông Ph trễ, mẹ ông Ph đã đánh bà Tr còn ông Ph thì bênh mẹ ruột của mình mà có những lời lẽ xúc phạm bà Tr dẫn đến ông bà mâu thuẫn không thể hòa đồng với nhau, tình cảm bị rạn nứt trầm trọng, không còn quý trọng yêu thương nhau, chăm sóc cho nhau và tình trạng này không thể khắc phục được.

- Về con chung: Bà Tr và ông Ph có một con chung là cháu Hồ Thiên B, sinh ngày 22/11/2015.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận.

Về nợ chung: Không có.

Nay bà Nguyễn Thị Kim Tr yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim Tr yêu cầu được ly hôn với ông Hồ Tấn Ph.

- Về con chung: Sau khi ly hôn, bà Nguyễn Thị Kim Tr yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hồ Thiên B, sinh ngày 22/11/2015 cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Tr không yêu cầu ông Ph cấp dưỡng cho cháu B.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn ông Hồ Tấn Ph trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Ph thống nhất với lời trình bày của bà Tr về thời điểm kết hôn, nơi đăng ký kết hôn. Về nguyên nhân mâu thuẫn thì ông Ph cho rằng vào cuối tháng 11/2016, do bà Tr ngủ dậy trễ nên mẹ ruột của ông Ph vào phòng nhắc nhở bà Tr, lúc đó bà Tr cãi nhau với mẹ ruột của ông Ph, mẹ ruột của ông Ph đã tát vào mặt bà Tr 01 cái, bà Tr cũng nhào đến để đánh mẹ ruột của ông Ph, nhờ sự can ngăn của người thân trong gia đình nên giữa mẹ ruột của ông Ph và bà Tr không xô xát với nhau nữa. Sau đó, ông Ph khuyên bà Tr xin lỗi mẹ ruột của ông Ph nhưng bà Tr không đồng ý. Đến đầu tháng 12/2016, bà Tr ẵm con ruột của bà Tr và ông Ph tên Hồ Thiên B, sinh ngày 22/11/2015 lên BD sinh sống và làm việc. Đến ngày 28/01/2017, ông Ph cùng với mẹ nuôi của ông Ph, dượng sáu của ông Ph đến nơi ở của bà Tr để khuyên bà Tr về nhà nhưng bà Tr không đồng ý, lúc đó cha ruột của bà Tr nói với ông Ph sẽ khuyên bà Tr về sống chung với ông Ph.

Tuy nhiên, đến ngày 14/02/2017, ông Ph tiếp tục đến BD nơi bà Tr đang ở trọ để khuyên bà Tr về nhà thêm lần nữa nhưng bà Tr vẫn không đồng ý, ông Ph ở lại chỗ của bà Tr để khuyên bà Tr về ở lại nhưng bà Tr không đồng ý, đến ngày 22/02/2017 thì ông Ph ẵm cháu B về sống tại địa chỉ: Số Z, đường T, khóm P, phường E, thành phố ST, tỉnh ST cho đến nay. Do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn được nên bà Tr yêu cầu ly hôn thì ông Ph cũng đồng ý.

- Về con chung: Ông Ph và bà Tr có một con chung là cháu Hồ Thiên B, sinh ngày 22/11/2015. Trong trường hợp Tòa án giải quyết cho ông Ph và bà Tr ly hôn thì ông Ph yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hồ Thiên B, sinh ngày 22/11/2015 cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi, bởi vì theo ông Ph hiện nay ông Ph có việc làm ổn định, thu nhập của ông Ph mỗi tháng khoảng 30.000.000đồng nên ông Ph sẽ chăm lo cho cháu B tốt hơn bà Tr.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Ph không yêu cầu bà Tr cấp dưỡng cho cháu B.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim Tr và ông Hồ Tấn Ph xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông, bà là hợp pháp. Trong quá trình chung sống do ông, bà không hợp nhau về tính tình. Theo bà Tr là do ông, bà bất đồng quan điểm sống, cư xử không tôn trọng nhau dẫn đến tình cảm bị rạn nứt trầm trọng. Đặc biệt là vào cuối tháng 11/2016 do bà Tr có con nhỏ nên ra quán phụ bán với mẹ ông Ph trễ, mẹ ông Ph đã đánh bà Tr còn ông Ph thì bênh mẹ ruột của mình mà có những lời lẽ xúc phạm bà Tr dẫn đến ông bà mâu thuẫn. Thấy vậy bà Tr đã ẵm cháu B đến chỗ mẹ ruột của bà Tr đang ở trọ tại Bình Dương để sinh sống. Khoảng tháng 02/2017 ông Ph đến ẵm cháu B về nhà ông Ph sinh sống cho đến nay. Còn ông Ph thì cho rằng do bà Tr ngủ dậy trễ nên mẹ ruột của ông Ph vào phòng nhắc nhở bà Tr, lúc đó bà Tr cãi nhau với mẹ ruột của ông Ph, mẹ ruột của ông Ph đã tát vào mặt bà Tr 01 cái, bà Tr cũng nhào đến để đánh mẹ ruột của ông Ph. Sau đó ông Ph có khuyên bà Tr xin lỗi mẹ ruột của ông Ph nhưng bà Tr không chịu. Đến đầu tháng 12/2016, bà Tr ẵm cháu B lên BD sinh sống và làm việc, gia đình ông Ph đã nhiều lần đến khuyên bà Tr về chung sống nhưng bà Tr không đồng ý. Ông, bà cũng thừa nhận đã sống ly thân từ cuối năm 2016 cho đến nay. Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn giữa ông bà đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Tr cho bà Tr được ly hôn với ông Ph.

- Về con chung: Bà Tr và ông Ph có một người con chung là cháu Hồ Thiên B, sinh ngày 22/11/2015. Hiện nay cháu B đang sống chung với ông Ph. Sau khi ly hôn, bà Tr và ông Ph đều có nguyện vọng nuôi con chung là cháu Hồ Thiên B.

+ Xét về điều kiện nuôi con, thấy rằng:

Bà Tr và ông Ph đều thừa nhận cháu Hồ Thiên B, sinh ngày 22/11/2015 từ nhỏ đã sống cùng bà Tr và ông Ph tại nhà ông Ph, đến tháng 12 năm 2016 ông Ph và bà Tr xảy ra mâu thuẫn thì bà Tr mới ẵm cháu B lên nhà trọ tại BD sinh sống, khoảng tháng 02 năm 2017 thì ông Ph lên nhà Trọ bà Tr ở BD ẵm cháu B về nhà ông Ph tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cho đến nay, hiện nay cháu B không còn dùng sữa mẹ. Tại biên bản xác minh ngày 14/8/2017 thì cháu B hiện nay cũng đang ở nhà của ông Ph tại Số Z, đường T, khóm P, phường E, thành phố ST, tỉnh ST, cuộc sống của cháu B đang phát triển ổn định. Đối với bà Tr, hiện nay bà Tr đang đi làm công nhân tại BD, đang ở nhà trọ nên chưa có nhà ở ổn định; Đối với ông Ph, hiện đang kinh doanh tại nhà, công việc và chỗ ở của ông Ph cũng ổn định. Xét về điều kiện nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy ông Ph có điều kiện để nuôi cháu B hơn bà Tr, đồng thời cũng đảm bảo quyền lợi và sự phát triển mọi mặt của cháu B, hơn nữa hiện nay cháu B sống với ông Ph cuộc sống của cháu cũng phát triển ổn định. Vì vậy, căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu B cho ông Ph trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi.

+ Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Tr không cấp dưỡng cho cháu B.

Bà Nguyễn Thị Kim Tr có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung tên Hồ Thiên B mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về tài sản chung: Bà Tr và ông Ph trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

+ Về nợ chung: Bà Tr và ông Ph trình bày không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim Tr phải chịu án phí ly hôn số tiền là 300.000 đồng.

Ý kiến của kiểm sát viên: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống đạt đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm. Về nội dung đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về quan hệ hôn nhân, về con chung, tài sản chung và nợ chung; đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 3 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân gia đình. Xét đề nghị của kiểm sát viên là không có cơ sở chấp nhận như đã phân tích ở trên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 39 của Bộ luật dân sự.

- Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 2, 3 Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim Tr được ly hôn với ông Hồ Tấn Ph.

2. Về con chung: Giao cho ông Hồ Tấn Ph trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hồ Thiên B, sinh ngày 22/11/2015 cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Thị Kim Tr không cấp dưỡng cho cháu B.

Bà Nguyễn Thị Kim Tr có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung tên Hồ Thiên B mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Kim Tr và ông Hồ Tấn Ph tự thỏa thuận

Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị Kim Tr và ông Hồ Tấn Ph

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim Tr  phải chịu án phí ly hôn số tiền 300.000đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Tr đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu số 0007223 ngày 19/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng. Bà Tr đã nộp xong án phí ly hôn.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

428
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2017/HNGĐ-ST ngày 29/08/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:47/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về