TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 37/2023/HS-ST NGÀY 26/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 43/2023/TLST-HS ngày 19/6/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2023/QĐXXST-HS ngày 12/7/2023, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T; Tên gọi khác: Chuột; Giới tính: Nam; sinh năm 2003, tại tỉnh Cà Mau; Đăng ký thường trú: Ấp Mai Hoa, xã Nguyễn Huân, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Bốc xếp; Trình độ văn hóa: không biết chữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn T và bà Trần Thị H; vợ con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/3/2023 đến nay (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 00h30’ ngày 08/3/2023, sau khi đi làm về Nguyễn Văn T đưa xe mô tô nhờ Huỳnh Văn H chở đến hẻm chùa Bà, Ấp 5, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh để gặp một người bạn thì H đồng ý. Khi đến đầu hẻm, T nói H dừng xe ngồi chờ, còn T đi bộ vào hẻm đến trước dãy trọ gặp một người tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) để lấy 01 gói ma túy đá mà H đã hứa cho T trước đó. Sau khi nhận được ma túy, T bỏ vào túi quần đang mặc rồi đi ra để H chở về nhà trọ. Đến 01h30’ cùng ngày, khi H và T đi đến trước số nhà 24 đường Nguyễn Bình, Ấp 3, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an huyện Nhà Bè phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần của T 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, T khai là ma túy đá.
Tại bản Kết luận giám định số 2177/KL-KTHS ngày 16/3/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Bột màu trắng được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1383g, loại Methamphetamine.
Tại bản Cáo trạng số 43/CT-VKS-NB ngày 14/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trình bày luận tội và tranh luận: Giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,1037g ma túy, loại Methamphetamine; Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi, màu đen; Giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng thông báo tìm chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển số 60P6-69xx. Hết thời hạn 01 năm kể từ ngày đăng thông báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
Bị cáo nhận tội, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mà không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 01h30” ngày 08/3/2023, tại khu vực trước số nhà 24 đường Nguyễn Bình, Ấp 3, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn T đang tàng trữ 0,1383g ma túy Methamphetamine để sử dụng thì bị Công an huyện Nhà Bè phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
[3] Xét tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Vụ án thuộc loại nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi cất giữ ma túy để sử dụng bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vì là đối tượng nghiện ma túy nên đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật để thỏa mãn nhu cầu trái pháp luật của bản thân. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn.
[4] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội phạm này ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.
[5] Về xử lý vật chứng:
[5.1] 0,1037g ma túy, loại Methamphetamine là vật chứng của vụ án bị cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.
[5.2] 01 chiếc điện thoại di động hiệu Redmi, màu đen, thu giữ của bị cáo nhưng không phải là vật chứng của vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.
[6] Đối với người đưa ma túy cho Nguyễn Văn T do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè tiếp tục làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.
[7] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/3/2023.
[2] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.
[2.1] Tịch thu tiêu hủy: Tinh thể không màu có khối lượng 0,1037g, được niêm phong có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra (ký kiệu 488/23 Nhà Bè).
[2.3] Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi, màu đen, Imei 1: 868360050343200/01; Imei 2: 868360050343218/01, đã qua sử dụng, bể màn hình.
[2.3] Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh đăng thông báo tìm chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển số 60P6-69xx, hiệu Wave, màu đen, số máy: VHLFM152FMH-V422560, số khung: RMNWCHZMN7H002560, đã qua sử dụng. Hết thời hạn 01 năm kể từ ngày đăng thông báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
(Toàn bộ bộ vật chứng theo pH nhập kho số 2023-NK042, ngày 06/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh).
[3] Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án 37/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 37/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về