Bản án 36/2023/HS-ST ngày 28/04/2023 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 36/2023/HS-ST NGÀY 28/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2023/TLST- HS ngày 28 tháng 02 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 48/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2023;

- Bị cáo: Lý Minh Ph, sinh năm 1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giấy chứng minh nhân dân số: 27467206X, do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 13-6-2011; nơi đăng ký thường trú: Số Q, Đường liên tỉnh T, Phường Y, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Tổ R, Khu phố E, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý A T và bà Nguyễn Thị Bích L; chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Ngọc M và có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, chuyển tạm giam từ ngày 20-6-2022 đến nay tại Trại Tạm giam - Công an tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Lý Minh Ph: Bà Trần Thị Thanh Ng, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai; nơi làm việc: Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Y; địa chỉ: Số F, đường Võ Thị S, phường Th, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Hoàng Thanh Kh, sinh năm 2001; Giấy chứng minh nhân dân số: 2725475X, do Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 18-6-2021; nơi đăng ký thường trú: Khu phố R, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Anh Trần Minh H, sinh năm 2002; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính:

Lý Minh Ph là đối tượng nghiện ma túy tổng hợp (ma túy đá); vào khoảng tháng 4/2022, Ph đã nhiều lần mua ma túy đá của người phụ nữ tên Nguyễn Thị H, để mang về sử dụng. Đến khoảng tháng 5/2022, H rủ Ph giúp bán ma túy cho H, H trả tiền công, thì Ph đồng ý. Cách thức mua bán ma túy: H đưa cho Ph ma túy, để Ph mang về cất giấu tại nhà thuê không số, thuộc Tổ R, Khu phố E, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; khi nào có khách mua ma túy thì trực tiếp liên lạc cho H, H nhận tiền bán ma túy và thông báo lại địa điểm cho Ph, để Ph mang ma túy đi giao; cụ thể: Khoảng tháng 5/2022, Ph đã 20 lần giúp H bán 40 gói ma túy đá cho các đối tượng tên Kh, Ho, H1, T và nhiều người khác (chưa rõ lai lịch); Ph được H trả công 6.000.000 đồng.

Ngày 18/6/2022, H tiếp tục giao cho Ph 12 gói ma túy đá, rồi Ph mang về nhà thuê nêu trên cất giấu. Đến khoảng 11 giờ ngày 20/6/2022, H dùng số điện thoại di động 0396.096.14X liên lạc cho Ph theo số điện thoại 0919.486.44X, để Ph mang 01 gói ma túy đá đến trước cổng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đồng Nai, bán cho người tên T1 (không rõ lai lịch), nhưng chưa kịp bán thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Đồng Nai (sau đây, viết tắt là Cơ quan điều tra) phát hiện, bắt quả tang; thu giữ trong người Ph: 01 gói ny-lon bên trong có chứa tinh thể màu trắng (Kí hiệu M1), 01 điện thoại di động hiệu OPPO kèm số sim 0919.486.4XX và số tiền 1.000.000 đồng. Cơ quan điều tra tiếp tục khám xét nhà thuê của Ph, thu giữ: 11 (mười một) gói ny-lon bên trong có chứa tinh thể màu trắng (Kí hiệu M2) và 02 dụng cụ sử dụng ma túy.

2. Nội dung khác có liên quan:

Đối với Nguyễn Thị H, sinh năm 1964 (cư trú tại: Khu phố R, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai), Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét nhà do Nguyễn Thị H thuê tại Số A, Tổ O, Khu phố Q, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì không thu giữ tài sản, đồ vật gì liên quan đến hành vi phạm tội. Hiện Cơ quan điều tra chưa làm việc được với Nguyễn Thị H, nên tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

Ngoài ra, Lý Minh Ph còn khai: Nguồn ma túy bị thu giữ ngày 20/6/2022 là do Nguyễn Thị H đưa cho Hoàng Thanh Kh mang đến, giao cho Ph, để Ph mang đi bán. Cơ quan điều tra làm việc và cho đối chất giữa Ph với Kh, Kh không thừa nhận có việc giao ma túy cho Ph. Hiện không còn chứng cứ, tài liệu nào khác, nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

3. Giám định:

Tại Kết luận giám định số: 1307/KL-KTHS ngày 27/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: Mẫu M1 là ma túy, có khối lượng 5,0165gam, loại Methamphetamine; Mẫu M2 là ma túy, có khối lượng 97,7311gam, loại Methamphetamine.

4. Cáo trạng và trình bày của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Cáo trạng số: 29/CT-VKS-P1 ngày 18 tháng 02 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, đã quyết định truy tố Lý Minh Ph về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt bị cáo Lý Minh Ph 20 năm tù.

định.

- Về biện pháp tư pháp: Đề nghị giải quyết theo cáo trạng đã quyết 5. Trình bày của bị cáo tại phiên tòa:

Bị cáo vẫn giữ nguyên ý kiến và lời khai trong quá trình điều tra và truy tố; đồng thời, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu.

cáo.

6. Người bào chữa cho bị cáo trình bày:

Về tội danh: Thống nhất như quan điểm cáo trạng đã truy tố đối với bị Về hình phạt: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;

trong đó, có tình tiết bị cáo đã khắc phục hậu quả, theo điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Không có cơ sở để xác định bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015; do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án.

[2] Về tội danh bị truy tố:

Tại phiên tòa, bị cáo Lý Minh Ph khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã mô tả. Trình bày của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Tổng khối lượng ma túy thu giữ của Ph là 102,7476 gam, loại Methamphetamine; Cáo trạng truy tố là có căn cứ, đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về trách nhiệm hình sự:

3.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Qua xem xét trích xuất dữ liệu điện thoại di động, lời khai và trình bày của bị cáo tại phiên tòa, đủ cơ sở xác định bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

3.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình có hoàn cảnh khó khăn, được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

3.3. Về hình phạt và biện pháp ngăn chặn:

Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, cần xử phạt bị cáo hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian, tương xứng với hành vi phạm tội và hoàn cảnh của bị cáo, để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm; đồng thời, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm cho việc thi hành án.

[4] Vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy tổng số ma túy còn lại đã được niêm phong sau giám định cùng 02 dụng cụ sử dụng ma túy.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động là phương tiện Ph dùng vào việc phạm tội; số tiền 6.000.000 đồng do Ph phạm tội mà có.

[5] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, bị cáo và người bào chữa tại phiên tòa:

- Chấp nhận quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

- Chấp nhận một phần quan điểm của người bào chữa. Đối với đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo đã khắc phục hậu quả, theo điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là không có căn cứ; bởi lẽ, số tiền 6.000.000 đồng thu giữ và giao nộp là tiền bị cáo thu lợi bất chính, phải tịch thu sung công quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố và hồ sơ vụ án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh:

Tuyên bố bị cáo Lý Minh Ph phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

2. Hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Lý Minh Ph 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20-6-2022.

3. Biện pháp ngăn chặn:

Căn cứ khoản 1 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tiếp tục tạm giam bị cáo Lý Minh Ph theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử, để bảo đảm thi hành án.

4. Xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 1307/KL-KTHS ngày 27/6/2022 và 02 dụng cụ sử dụng ma túy.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO kèm sim và số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng).

Các vật chứng và số tiền nêu trên, đang lưu giữ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai, theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21-02-2023, phiếu nhập: NK23/066; Giấy nộp tiền mặt số: 19879554 ngày 21-02-2023 của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Biên Hòa (Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai nộp tiền mặt vào Kho bạc Nhà nước).

5. Án phí:

Buộc bị cáo Lý Minh Ph phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo:

- Bị cáo Lý Minh Ph được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Hoàng Thanh Kh được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2023/HS-ST ngày 28/04/2023 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về