Bản án 33/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 33/2018/HS-ST NGÀY 06/02/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự  sơ thẩm thụ lý số 02/2018/HSST ngày 10 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xửsố 20/2018/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1983 tại tỉnh A; thường trú: Ấp 2, xã V, huyện P, tỉnh A; tạm trú: Ấp C, xã H, thành phố B, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1962 và bà Trần Thị X, sinh năm 1966; bị cáo có 03 em ruột, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1993; bị cáo không có chồng, có 01 con sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không, bị bắt tạm giam ngày 23/9/2017, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Anh Huỳnh Anh T, sinh năm 1996; địa chỉ: Số 13/1 khu phố 1 A, phường A, thị xã T, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Bích T nghiện ma túy từ năm 2016. Sáng ngày 23/9/2017, T đến khu vực xã T, thành phố B, tỉnh Đ gặp người đàn ông tên K (chưa rõ nhân thân) mua 13 liều ma túy đá được bảo quản trong gói ni lon hàn kín với giá1.700.000 đồng. Sau đó, T về phòng trọ sử dụng hết 02 liều. Đến khoảng 23 giờ30 phút cùng ngày, T mang số ma túy còn lại đi rủ bạn cùng sử dụng. Khi T đang đứng chờ bạn tại khu vực thuộc tổ 01, khu phố T, phường Tân Đ, thị xã D, tỉnh B thì bị lực lượng tuần tra Công an phường Tân Đ, thị xã D, tỉnh B kiểm tra thu giữ 11 gói ma túy do T tự nguyện giao nộp.

Ngày 24/9/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thị xã D ra Quyết định trưng cầu giám định số 756/QĐ-CQ.CSĐT trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B giám định: 11 gói giấy bạc bên trong có tinh thể màu trắng.

Tại kết luận giám định số 440/GĐ-PC54 ngày 02/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, kết luận: Mẫu tinh thể (M1), (M2) gửi đến giám định là ma túy, có trọng lượng 1,0913 gam  (M1); 0,9457  gam (M2), loại Methamphetamine.

Tang vật tạm giữ: 01 bì thư   niêm phong số 440-PC54 trọng lượng sau giám định là 0,6451g (M1) và 0,6443g (M2).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận giám định số 440/GĐ-PC54 ngày 02/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.

Đối với đối tượng chưa rõ nhân thân lai lịch bán ma túy cho T tại khu vực xã T, thành phố B, tỉnh Đ, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đang xác minh làm rõ xử lý sau.

Cáo trạng số 24/QĐ-KSĐT ngày 09 tháng 01 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh B truy tố Nguyễn Thị Bích T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bích T từ 01năm 03 tháng đến 01năm 09 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy Một bì thư niêm phong số440/PC54 trọng lượng sau giám định là 0,6451g (M1) và 0,6443g (M2).

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Bích T xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã D, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người làm chứng cũng không có khiếu nạigì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Sáng ngày 23/9/2017, Nguyễn Thị Bích T đến khu vực xã T, thành phố B, tỉnh Đ gặp người đàn ông tên K (chưa rõ nhân thân) mua 13 liều ma túy đá với giá 1.700.000 đồng, được bảo quản trong gói ni lon hàn kín. Sau đó, T sử dụng hết 02 liều. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, T mang số ma túy còn lại đến khu vực thuộc tổ 01, khu phố T, phường Tân Đ, thị xã D, tỉnh B để rủ bạn cùng sử dụng. Khi T đang đứng chờ bạn thì bị lực lượng tuần tra Công an phường Tân Đ, thị xã D, tỉnh B kiểm tra thu giữ 11 gói ma túy do T tự nguyện giao nộp.

Kết luận giám định số 440/GĐ-PC54 ngày 02/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, kết luận: Mẫu tinh thể (M1), (M2) gửi đến giám định là ma túy, có trọng lượng 1,0913 gam (M1); 0,9457 gam (M2), loại Methamphetamine.

Xét, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo, lời khai củangười làm chứng tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ, đã có đủ cơ sở xác định: Với hành vi cất giữ 2,037 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm2017). Bị cáo đu năng lưc chiu trach nhiêm hinh sư . Do vây, Cáo trạng của Viện kiêm sat nhân dân thị xã D truy tô bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đung ngươi, đung tôi.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xa hôi , xâm pham đên hoat đông quan ly cua Nha nươc đôi vơi chât ma tuy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chât ma tuy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của bị cáo, loại tội phạm này là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây hậu quả rất xấu cho xã hội. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, có xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên khi quyêt đinh hinh ph ạt cũng cần xem xet giam môt phân hinh phat cho bi cao.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự.

[7] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư  niêm phong số 440-PC54 trọng lượng sau giám định là 0,6451g (M1) và 0,6443g (M2).

[8] Mức hình phạt do đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo Tuyền là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Bích T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bích T 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2017.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong số 440-PC54 trọng lượng sau giám định 0,6451g (M1) và 0,6443g (M2).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09/01/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D với Chi cục thi hành án Dân sự thị xã D).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự ; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Thị Bích T phải nộp 200.000 (Hai trăm nghin) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

471
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về