Bản án 183/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 183/2017/HSST NGÀY 16/08/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 8 năm 2017 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 145/2017/HSST ngày 07 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng T, giới tính: nam, sinh ngày: 01/01/2000, tại: Hậu Giang; HKTT: ấp T, thị trấn N, huyện C, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 4/12; con ông Nguyễn Hoàng H và bà không rõ họ tên; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ; tiền sự: không; tiền án: không; tạm giam: 24/3/2017; (Có mặt).

Đại diện hợp pháp cho Nguyễn Hòang T: Bà Cao Thị Thanh H, sinh năm 1987 – Trưởng ban thanh niên trường học Quận đoàn, quận G (Có mặt)

Người bị hại: Anh Nguyễn Trung N, sinh năm: 1995; trú tại: số 21 đường số B, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1/- Anh Hồ C, sinh năm: 1990; trú tại: đường số E, Phường B, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

Bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng T: Ông Vũ Anh T – Luật sư văn phòng luật sư L thuộc Đòan luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Hòang T bị Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Nguyễn Hoàng T là đối tượng không có việc làm, sống lang thang tại TP. Hồ Chí Minh. Khoàng 16 giờ  ngày 20/3/2017, T đến tiệm Royal Cybergame tại 106-108 Phạm Văn Chiêu, phường 9, quận Gò Vấp để chơi game và ngủ lại tại tiệm. Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 21/3/2017 T thức dậy thì thấy anh Nguyễn Trung N (sinh năm: 1995, ngụ: số 21 đường B, Phường M, quận G) là quản lý tiệm net đang ngủ trên ghế sofa có để chiếc điện thoại đi động Iphone 6 plus kế bên, T nảy sinh ý định trộm cắp điện thoại nên lén lút đến lấy, giấu vào túi quần rồi ra khỏi tiệm. T đem điện thoại trộm cắp được đến cửa hàng ĐTDĐ L, địa chỉ: 680 đường Q, phường M, quận G bán cho anh Hồ C là chủ cửa hàng được 800.000 đồng rồi đi về quê.

Khi thức dậy phát hiện bị mất điện thoại, anh N mở camera của tiệm ra xem thì thấy T lấy điện thoại nên trình báo Công an phường 9, quận Gò Vấp.

Ngày 23.3.2017, khi T đang đi trên đường ở thị trấn thị trấn N, huyện C, tỉnh Hậu Giang thì bị anh N tìm thấy, bắt giữ giao Cơ quan Công an.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 80/KL ngày 31/03/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp kết luận: trị giá chiếc điện thoại hiệu Iphone 6 Plus màu trắng hàng chính hãng, đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 21/3/2017 là 6.333.000 đồng.

Vật chứng:

- Điện thoại hiệu Iphone 6 Plus anh Hồ C đã bán cho người khác (không rõ tên, địa chỉ) với giá 2.500.000 đồng nên không thu giữ được.

- Số tiền 1.700.000 đồng là tiền chênh lệch bán điện thoại do anh Hồ C nộp, Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng theo phiếu nhập kho số 442/PNK ngày 19/4/2017.

Anh Nguyễn Trung N yêu cầu T bồi thường trị giá chiếc điện thoại là 8.100.000 đồng nhưng T chưa bồi thường.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Hoàng T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đối với anh Hồ C khi mua điện thoại không biết là do T trộm cắp mà có nên không xử lý.

Tại bản cáo trạng số 166/CTr-VKS, ngày 05/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Nguyễn Hoàng T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đối với vụ án đã đề nghị:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng T từ 6 tháng đến 9 tháng tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 1.700.000 đồng.

- Buộc bị cáo bồi thường 6.333.000 đồng cho người bị hại.

 Luật sư bào chữa cho bị cáo T

Về tội danh và Điều luật áp dụng thống nhất với quan điểm của Viện kiểm sát. Tuy nhiên ngoài những tình tiết giảm nhẹ mà Viện kiểm sát đã áp dụng xin Hội đồng xét xử xem xét thêm cho bị cáo phạm tội bốc đồng thiếu suy nghĩ chỉ suy nghĩ là kiếm tiền để về quê do bị cha bỏ rơi lang thang không nơi nương tựa, bị cáo phạm tội còn độ tuổi vị thành niên nên nhận thức về pháp luật và xã hội không cao, nhân thân bị cáo đáng được xem xét không có mẹ nuôi dưỡng từ nhỏ theo cha lên thành phố làm phụ hồ rồi cha cũng bỏ đi làm xa không quan tâm đến bị cáo. Với những tình tiết đó xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức khung hình phạt thấp nhất, tạo điều kiện cho bị cáo hòa nhập cùng cộng đồng xã hội làm lại cuộc đời.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Nguyễn Hòang T đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đối chiếu lời khai bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Nguyễn Hòang T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người bị hại, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh, hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân của mình mà không phải thông qua lao động chân chính bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, việc xử lý bị cáo bằng biện pháp hình sự là hết sức cần thiết và đúng quy định của pháp luật, nhằm giúp cho bị cáo có điều kiện học tập cải tạo lại mình sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác.

Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Hội đồng xét xử nhận thấy khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi còn trong độ tuổi vị thành niên nên nhận thức về pháp luật và xã hội không cao, phạm tội có tính chất nhất thời, trình độ học vấn thấp (4/12). Hội đồng xét xử nhận thấy thời gian tạm giữ, tạm giam bị cáo từ ngày 24/3/2017 đến nay cũng đủ tác dụng giáo dục và răn đe cho bị cáo, nên tạo điều kiện cho bị cáo được hưởng mức án bằng với thời gian tạm giữ, tạm giam sớm hòa nhập cùng cộng đồng xã hội và cần thiết khi lượng hình áp dụng Điều 69 và 74 cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 138 của Bộ luật Hình sự, do bị cáo phạm tội còn trong độ tuổi vị thành niên nên không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa hôm nay người bị hại anh Nguyễn Trung N vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện anh yêu cầu được bồi thường trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 8.100.000 đồng.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo xin được bồi thường theo giá trị tài sản đã được định giá theo quy định của pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của Viện kiểm sát buộc bị cáo bồi thường theo giá trị tài sản đã được Hội đồng định giá là có cơ sở nên quyết định buộc bị cáo bồi thường cho anh Nguyễn Trung N số tiền 6.333.000 đồng.

Về xử lý vật chứng:

Đối với số tiền 1.700.000 đồng anh Hồ C nộp tại Cơ quan điều tra là tiền thu lợi bất chính Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với anh Hồ C khi mua điện thoại của T không biết là do T trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý.

Xét lời bào chữa của luật sư là có một phần cơ sở Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận một phần

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hòang T phạm tội “Trộm cắp Tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h,p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 47; Điều 69; khỏan 1 Điều 74 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hòang T 04 (bốn) tháng 23 (hai mươi ba) ngày tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 24/3/2017.

Áp dụng khỏan 5 Điều 227 Bộ luật tố tụng hình sự; Hội đồng xét xử tuyên bố trả tự do cho bị cáo Nguyễn Hoàng T ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam về một tội phạm nào khác.

Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự và khoản 1, điểm b,c khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 1.700.000 (một triệu bảy trăm ngàn) đồng.

Theo phiếu nhập kho vật chứng số 442/PNK ngày 19/4/2017 của Công an quận Gò Vấp)

Buộc bị cáo bồi thường cho anh Nguyễn Trung N 6.333.000 (Sáu triệu ba trăm ba mươi ba ngàn) đồng ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Áp dụng khỏan 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 316.000 (Ba trăm mười sáu ngàn) đồng.

Áp dụng khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Dân sự; Kể từ ngày anh Nguyễn Trung N có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chưa thi hành khỏan tiền nêu trên, thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án. Lãi suất phát sinh do chậm thi hành được thực hiện theo quy định tại khỏan 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Việc Thi hành án được thực hiện tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

Bị cáo, đại diện hợp pháp cho bị cáo, luật sư có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008; Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 183/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:183/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về