Cho tôi hỏi: Tôi có sáng tạo ra một dây chuyền vận hành tự động hóa trong việc in ấn bao bì sản phẩm. Sau đó, công ty đã đăng ký bảo hộ sáng chế và đã được cấp bằng độc quyền sáng chế đối với dây chuyền vận hành này. Theo đó, công ty đã trở thành chủ sở hữu của sáng chế. Vậy trong trường hợp này, tôi sẽ có những quyền lợi gì khi là người tạo ra dây chuyền.
>> Ai là người có quyền đăng ký đối với sáng chế do người làm thuê tạo ra
>> Nhãn hiệu được coi là không có khả năng phân biệt trong trường hợp nào?
Nội dung này được Ban Hỗ trợ PHÁP LÝ KHỞI NGHIỆP trả lời như sau:
Tại Khoản 1 Điều 122 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định về tác giả của sáng chế như sau:
“Điều 122. Tác giả và quyền của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
1. Tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là người trực tiếp sáng tạo ra đối tượng sở hữu công nghiệp; trong trường hợp có hai người trở lên cùng nhau trực tiếp sáng tạo ra đối tượng sở hữu công nghiệp thì họ là đồng tác giả.”
Như vậy, anh/chị là người trực tiếp nghiên cứ và sáng tạo ra dây chuyền vận hành tự động hóa trong việc in ấn bao bì sản phẩm đã được đăng ký bảo hộ sáng chế. Vì vậy, anh/chị được xem là tác giả sáng chế.
Theo đó, căn cứ Khoản 2 và Khoản 3 Điều 122 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 và Điều 18 Nghị định 103/2006/NĐ-CP, anh/chị là tác giả của sáng chế sẽ có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với sáng chế như sau:
Thứ nhất, quyền nhân thân bao gồm:
- Được ghi tên là tác giả trong Bằng độc quyền sáng chế;
- Được nêu tên là tác giả trong các tài liệu công bố, giới thiệu về sáng chế.
Thứ hai, quyền tài sản của tác giả sáng chế là quyền nhận thù lao từ chủ sở hữu sáng chế:
- Mức thù lao tối thiểu mà chủ sở hữu sáng chế phải trả cho tác giả nếu hai bên không có thỏa thuận khác được quy định như sau:
+ 10% số tiền làm lợi mà chủ sở hữu thu được do sử dụng sáng chế;
+ 15% tổng số tiền mà chủ sở hữu nhận được trong mỗi lần nhận tiền thanh toán do chuyển giao quyền sử dụng sáng chế.
- Trường hợp sáng chế có đồng tác giả thì mức thù lao nêu trên là mức dành cho tất cả các đồng tác giả. Sau đó, các đồng tác giả tự thoả thuận việc phân chia số tiền thù lao do chủ sở hữu chi trả.
- Nếu hai bên không có thoả thuận khác, việc thanh toán tiền thù lao phải được thực hiện không muộn hơn 30 ngày, kể từ ngày chủ sở hữu nhận được tiền thanh toán do chuyển giao quyền sử dụng hoặc thu được lợi sau mỗi đợt sử dụng sáng chế;
- Nếu sáng chế được sử dụng liên tục thì mỗi đợt thanh toán không được quá 06 tháng, kể từ ngày kết thúc đợt thanh toán trước.
Thời hạn đối với quyền của tác giả sáng chế:
- Nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả sáng chế tồn tại trong suốt thời hạn bảo hộ của sáng chế.
- Khác với quyền tài sản, quyền nhân thân của tác giả sáng chế được bảo hộ vô thời hạn. Tức là dù đã hết 20 năm bảo hộ đối với sáng chế thì quyền nhân thân của tác giả sáng chế vẫn còn tồn tại.
Trên đây là nội dung hỗ trợ của PHÁP LÝ KHỞI NGHIỆP về vấn đề trên.
Trân trọng!