Đề xuất quy định chữ ký số trong giao dịch thuế điện tử lĩnh vực xuất nhập khẩu?

Đề xuất quy định chữ ký số trong giao dịch thuế điện tử lĩnh vực xuất nhập khẩu?

Đề xuất quy định chữ ký số trong giao dịch thuế điện tử lĩnh vực xuất nhập khẩu?

Bộ Tài chính đang dự thảo Thông tư quy định thủ tục về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh và phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.

Cụ thể, tại Điều 6 Dự thảo Thông tư, đã đề xuất quy định về chữ ký số trong giao dịch thuế điện tử đối với lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu như sau:

- Người nộp thuế khi thực hiện giao dịch thuế điện tử phải sử dụng chứng thư chữ ký số đang còn hiệu lực do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng cấp, hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận ký số trên các hồ sơ, chứng từ nộp thuế và thu khác bằng phương thức điện tử trừ một số trường hợp sau:

+ Người nộp thuế là cá nhân đã có mã số thuế chưa được cấp chứng thư chữ ký số;

+ Người nộp thuế lựa chọn phương thức nộp thuế điện tử theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Dự thảo Thông tư này thực hiện theo quy định của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.

- Người nộp thuế đăng ký chứng thư chữ ký số với cơ quan hải quan để thực hiện nộp thuế điện tử trên Cổng thanh toán điện tử hải quan.

- Trường hợp người nộp thuế có thay đổi một trong các thông tin nêu tại khoản 1, khoản 2 Điều 6 Dự thảo Thông tư thì người nộp thuế có trách nhiệm đăng ký thay đổi.

- Người nộp thuế phải sử dụng chữ ký số bằng chứng thư chữ ký số quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 6 Dự thảo Thông tư để ký trên các chứng từ nộp thuế, bảo lãnh thuế điện tử của người nộp thuế khi giao dịch với bằng phương thức điện tử trên Cổng thanh toán điện tử hải quan.

Như vậy, dự thảo Thông tư đã đề xuất quy định về chữ ký số trong giao dịch thuế điện tử lĩnh vực xuất nhập khẩu, theo đó người nộp thuế khi thực hiện giao dịch thuế điện tử phải sử dụng chứng thư chữ ký số đang còn hiệu lực một số quy định khác theo đề xuất trên.

Đề xuất quy định chữ ký số trong giao dịch thuế điện tử lĩnh vực xuất nhập khẩu?

Đề xuất quy định chữ ký số trong giao dịch thuế điện tử lĩnh vực xuất nhập khẩu? (Hình từ Internet)

Nguyên tắc giao dịch thuế điện tử trong lĩnh vực xuất nhập khẩu theo dự thảo Thông tư?

Ngoài ra, tại Điều 4 Dự thảo Thông tư cũng đã đề xuất nguyên tắc giao dịch thuế điện tử với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh và phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh như sau:

- Người nộp thuế thực hiện giao dịch nộp thuế và thu khác, bảo lãnh thuế điện tử phải có khả năng truy cập và sử dụng mạng Internet, có địa chỉ thư điện tử, có chữ ký số theo quy định tại Điều 5 dự thảo Thông tư trừ trường hợp người nộp thuế lựa chọn phương thức nộp thuế điện tử theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4 Dự thảo Thông tư thực hiện theo quy định của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.

- Người nộp thuế có thể lựa chọn các phương thức sau đây để thực hiện giao dịch thuế điện tử thông qua:

+ Cổng thanh toán điện tử hải quan/ phần mềm, công cụ hỗ trợ do cơ quan hải quan cung cấp thông qua Cổng thanh toán điện tử hải quan;

+ Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được kết nối với Cổng thanh toán điện tử hải quan;

+ Cổng Dịch vụ công quốc gia;

+ Dịch vụ thanh toán điện tử của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để thực hiện nộp thuế điện tử.

- Đăng ký sử dụng phương thức giao dịch bảo lãnh thuế, thu nộp tiền thuế điện tử

+ Người nộp thuế giao dịch thuế điện tử thông qua Cổng thanh toán điện tử hải quan thì đăng ký thực hiện giao dịch thuế điện tử theo quy định tại Điều 6 Dự thảo Thông tư;

+ Người nộp thuế giao dịch thuế điện tử thông qua Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được kết nối với Cổng thanh toán điện tử hải quan thì đăng ký thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

+ Người nộp thuế lựa chọn hình thức nộp thuế điện tử thông qua dịch vụ thanh toán điện tử của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thì đăng ký thực hiện theo hướng dẫn của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán;

+ Người nộp thuế lựa chọn bảo lãnh thuế điện tử của ngân hàng thì đăng ký thực hiện theo hướng dẫn của ngân hàng.

- Người nộp thuế lập chứng từ nộp ngân sách nhà nước điện tử theo một trong các phương thức sau:

+ Người nộp thuế truy cập Cổng thanh toán điện tử hải quan/ Công dịch vụ công quốc gia Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện lập chứng từ nộp ngân sách nhà nước điện tử trực tuyến tại Cổng thanh toán/thông tin điện tử mà người nộp thuế đã lựa chọn, ký số và gửi cho cơ quan hải quan;

+ Người nộp thuế lựa chọn phương thức giao dịch thuế điện tử bằng phần mềm, công cụ hỗ trợ do cơ quan hải quan cung cấp mà người nộp thuế lựa chọn, ký số và gửi thông tin đến Cổng thanh toán điện tử hải quan;

+ Người nộp thuế nộp thuế điện tử thông qua dịch vụ thanh toán điện tử của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, người nộp thuế truy cập vào Cổng trao đổi thông tin của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và thực hiện lập chứng từ nộp ngân sách nhà nước theo hướng dẫn của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thực hiện chuyển thông tin nộp thuế điện tử của người nộp thuế đến Cổng thanh toán điện tử hải quan theo quy định tại Điều 7 Dự thảo Thông tư.

Đăng ký sử dụng phương thức giao dịch thuế điện tử theo quy định hiện nay?

Quy định về đăng ký sử dụng phương thức giao dịch thuế điện tử như sau:

- Người nộp thuế giao dịch thuế điện tử thông qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế thì đăng ký thực hiện giao dịch thuế điện tử theo quy định tại Điều 10 Thông tư 19/2021/TT-BTC.

- Người nộp thuế giao dịch thuế điện tử thông qua Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính được kết nối với Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế thì đăng ký thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan chủ quản hệ thống.

- Người nộp thuế giao dịch thuế điện tử thông qua Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác được kết nối với Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế thì đăng ký thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Người nộp thuế giao dịch thuế điện tử thông qua tổ chức cung cấp dịch vụ T-VAN được Tổng cục Thuế chấp nhận kết nối với Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế thì đăng ký thực hiện giao dịch thuế điện tử theo quy định tại Điều 42 Thông tư 19/2021/TT-BTC.

Trong cùng một khoảng thời gian, người nộp thuế chỉ được lựa chọn đăng ký, thực hiện một trong các thủ tục hành chính thuế quy định tại điểm a khoản 1 Điều 1 Thông tư 19/2021/TT-BTC qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế, Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính hoặc một Tổ chức cung cấp dịch vụ T-VAN (trừ trường hợp nêu tại Điều 9 Thông tư 19/2021/TT-BTC).

- Người nộp thuế lựa chọn hình thức nộp thuế điện tử thông qua dịch vụ thanh toán điện tử của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thì đăng ký thực hiện theo hướng dẫn của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.

- Người nộp thuế đã thực hiện đăng ký giao dịch với cơ quan thuế bằng phương thức điện tử thì phải thực hiện các giao dịch với cơ quan thuế theo phạm vi quy định tại khoản 1 Điều 1 Thông tư 19/2021/TT-BTC bằng phương thức điện tử, trừ các trường hợp quy định tại Điều 9 Thông tư 19/2021/TT-BTC.

(Tại khoản 3 Điều 4 Thông tư 19/2021/TT-BTC)

Chữ ký số
Căn cứ pháp lý
MỚI NHẤT
Pháp luật
Đề xuất quy định chữ ký số trong giao dịch thuế điện tử lĩnh vực xuất nhập khẩu?
TÌM KIẾM LIÊN QUAN

TÌM KIẾM VĂN BẢN
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch