Bản án về xin ly hôn số 57/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 57/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 22 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số:

244/2022/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2022 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2022 và quyết định hõan phiên tòa số: 53/2022/QĐHPT - HNGĐ, ngày 05/9/2022; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: bà Lê M – sinh năm 1982 Địa chỉ: khu phố 04, thị trấn L, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: ông Phan Ch – sinh năm 1977 Địa chỉ khu phố 14, thị trấn L, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và biên bản lấy lời khai nguyên đơn bà Lê M trình bày: Bà và ông Phan Ch tự nguyện tìm hiểu yêu thương nhau và sống với nhau vào năm 1998, hai bên gia đình có tổ chức lễ cưới hỏi cho ông bà, ông bà có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn L vào năm 2005.

Sau khi cưới bà về nhà ông Phan Ch làm dâu được gần 10 năm. Cuộc sống hôn nhân giữa bà và ông Phan Ch chỉ hạnh phúc được khoảng thời gian đầu, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông Phan Ch không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, chỉ ham ăn chơi, bạn bè và đánh đập bà. Năm 2007 bà phát hiện ông Phan Ch ngoại tình và có con riêng với người phụ nữ khác. Bà đã khuyên can nhưng ông Phan Ch không nghe, do đó bà đã bỏ đi vào thành phố Hồ Chí Minh sinh sống từ đó cho đến nay. Khoảng 15 năm nay vợ chồng bà sống ly thân, không ai quan tâm đến ai Nhận thấy đời sống hôn nhân đã không hạnh phúc, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng đã không còn, có hàn gắn cũng không hạnh phúc nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Phan Ch.

Về con chung: bà và ông Phan Ch có 02 con chung tên Phan Thị Tr – sinh năm 1998 và Phan Thị Đ – sinh năm 2000 đều đã thành niên.

Về tài sản và nợ chung: bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi với bị đơn ông Phan Ch: theo biên bản xác minh tại khu phố 14, thị trấn L, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận thì ông Phan Ch có hộ khẩu tại khu phố 14, thị trấn L, huyện Tuy Phong và hiện đang có mặt tại địa phương. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến ngày xét xử, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi cư trú của ông Phan Ch theo đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật đã quy định nhưng ông Phan Ch vẫn cố tình vắng mặt cũng như không thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo luật định.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong phát biểu ý kiến kiểm sát về việc tuân theo pháp luật:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tuân thủ theo đúng các quy định Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.

Việc tuân theo pháp luật của thư ký phiên tòa: thư ký đã tuân thủ theo đúng quy định tại các Điều 237 và Điều 239 Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án:

Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Lê M đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70 và Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn ông Phan Ch không thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng theo quy định tại các Điều 70 và Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Lê M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Lê M khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Phan Ch, do đó đây là vụ án “Tranh chấp về ly hôn” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông Phan Ch có nơi cư trú tại khu phố 14, thị trấn L, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Lê M thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa ông Phan Ch đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, bà Lê M vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: Theo lời trình bày của nguyên đơn cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì bà Lê M và ông Phan Ch tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn L, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận nên hôn nhân giữa ông bà là hợp pháp.

Bà Lê M trình bày ông Phan Ch không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, chỉ ham ăn chơi, bạn bè và đánh đập bà, bà bỏ vào thành phố Hồ Chí Minh sinh sống và làm việc từ đó mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, ông bà không còn chung sống 15 năm may. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập nhưng ông Phan Ch không chấp hành, điều này chứng tỏ ông Phan Ch không có thiện chí và không có mong muốn hàn gắn tình cảm với bà Lê M. Quá trình xác minh tại địa phương và qua làm việc với gia đình bà Lê M đều xác định bà Lê M không còn chung sống với ông Phan Ch.

Nhận thấy tình trạng hôn nhân giữa bà Lê M và ông Phan Ch đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, để đảm bảo quyền lợi của các đương sự và để ổn định cuộc sống cho các bên, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê M.

[3] Về con chung: có 02 con chung tên Phan Thị Tr – sinh năm 1998 và Phan Thị Đ – sinh năm 2000 đều đã thành niên.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: bà Lê M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết quan hệ này.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong là có căn cứ và phù hợp nên chấp nhận.

[6] Về án phí: căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí về lệ phí Tòa án thì bà Lê M là người có yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc giải quyết ly hôn.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1/ Áp dụng: khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 146 và khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

Điều 51; khoản 1 Điều 56; Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí về lệ phí Tòa án.

2/ Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê M đối với ông Phan Ch. Bà Lê M được ly hôn với ông Phan Ch.

3/ Về án phí: bà Lê M phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc giải quyết ly hôn. Bà Chi đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại biên lai thu số 0003598 ngày 24/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Phong, bà Lê M đã nộp đủ án phí.

4/ Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn số 57/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:57/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về