TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 228/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 12 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 476/2022/TLST HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2022 về việc “xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 276/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1978 (có mặt). Cư trú tại: Số 537, ấp BĐ, xã L, thành phố M, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn: Bà Phương Diễm N, sinh năm 1978 (có mặt).
Nơi đăng ký HKTT: Khóm V, thị trấn C, huyện N, tỉnh Cà Mau.
Chổ ở hiện nay: Số 537, ấp BĐ, xã L, thành phố M, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng Ttrình bày tại đơn khởi kiện và phiên tòa như sau:
Về hôn nhân: Ông và bà Phương Diễm N chung sống với nhau vào năm 2019 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, thành phố M, tỉnh Cà Mau. Trong cuộc sống vợ chồng thời gian đầu có hạnh phúc. Tuy nhiên, đến năm 2020 có nhiều mâu thuẫn phát sinh do quan điểm sống không đồng nhất, thường xuyên cự cãi, từ đó dẫn đến đời sống vợ chồng không còn hạnh phúc, ông và bà N đã ly thân từ tháng 7 năm 2022, hiện mỗi người đều có cuộc sống riêng, không ai quân tâm ai. Nay ông không còn tình cảm với bà N nên ông yêu cầu xin ly hôn với bà Nhanh.
Về con chung: Trong quá trình chung sống ông và bà N chưa có con chung. Về tài sản chung: Ông xác định vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Ông khai vợ chồng không có nợ chung và cũng không ai nợ lại.
- Bị đơn bà Phương Diễm N trình bày:
Về hôn nhân: Bà và ông T chung sống với nhau từ năm 2019 và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật đúng như ông T trình bày. Trong quá trình chung sống từ năm 2019 đến nay phát sinh nhiều mâu thuẫn, bà và ông T đã ly thân từ tháng 7 năm 2022, nhưng theo bà cho rằng mâu thuẫn không lớn và hiện hai bên chưa thỏa thuận phần tài sản chung nên không đồng ý lý hôn.
Về con chung: Trong quá trình chung sống bà và ông T chưa có con chung.
Về tài sản chung: Bà xác định vợ chồng có 04 phần đất gồm: 01 phần đất không rõ diện tích tọa lạc tại xã L, thành phố M đứng tên ông Nguyễn Hoàng T, 01 phần đất không rõ diện tích đứng tên bà Phương Diễm N tọa lạc tại phường 8, thành phố Cà Mau, 01 phần đất tọa lạc tại xã K, huyện B, không rõ diện tích, đứng tên ông T, 01 phần đất tọa lạc tại Cầu Tân Đức không rõ địa chỉ và diện tích đứng tên ông T. Hiện bà yêu cầu phân chia các tài sản trên theo pháp luật.
Về nợ chung: Bà khai vợ chồng không có nợ chung và cũng không ai nợ lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Nội dung tranh chấp giữa ông Nguyễn Hoàng T và bà Phương Diễm N được xác định là tranh chấp chấp về ly hôn, bà Nhanh có địa chỉ cư trú hiện tại là xã L, thành phố M nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân, ông Nguyễn Hoàng T và bà Phương Diễm N xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2019 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, thành phố M, tỉnh Cà Mau theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông bà được công nhận là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Hiện ông T yêu cầu xin ly hôn với bà N. Bà N không đồng ý. Theo lời trình bày của ông T tại phiên tòa do vợ chồng sống không hợp nhau, và có nhiều mâu thuẫn, mặc dù đã cố gắng hàn gắn nhiều lần nhưng vẫn không có tiếng nói chung. Nên ông, bà đã ly thân từ tháng 7 năm nay. Đồng thời, trong suốt thời gian ông T yêu cầu ly hôn tại Tòa án, mặc dù bà N đã được Tòa án mời hòa giải nhưng bà N cũng không đến Tòa án để hòa giải, yêu cầu xin hàn gắn, không gửi ý kiến đối với yêu cầu của ông T. Đến tại phiên tòa bà cho rằng ông T và bà không thỏa thuận được về tài sản chung nên bà không đồng ý ly hôn. Mặc dù, không đồng ý ly hôn nhưng tại phiên tòa bà cũng không yêu cầu xin hàn gắn và đưa ra biện pháp hàn gắn để vợ chồng về chung sống với nhau. Lý do không đồng ý ly hôn là tài sản chung chưa thỏa thuận.
Hội đồng xét xử xét thấy, cuộc sống chung giữa ông T, bà N mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt đựơc, hiện ông T, bà N đã ly thân, mỗi người đã có cuộc sống riêng, không ai quan tâm chăm sóc ai. Dù có tiếp tục hôn nhân thì ông T, bà N cũng không có hạnh phúc, ông T xác định dù Tòa có bác đơn ông cũng không thể chung sống lại với bà Nhanh. Do đó, có cơ sở chấp nhận lời trình bày và yêu cầu của ông T về việc xin ly hôn với bà N.
[3] Về con chung, ông T, bà N chưa có con chung Hội đồng xét xử không xem xét .
[4] Về tài sản chung: Ông T xác định vợ chồng không có tài sản chung, mà chỉ có tài sản riêng của mỗi người, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà N xác định vợ chồng có 04 phần đất gồm: 01 phần đất thổ cư không rõ diện tích tọa lạc tại xã L, thành phố M đứng tên ông Nguyễn Hoàng T, 01 phần đất không rõ diện tích đứng tên bà Phương Diễm N tọa lạc tại phường 8, thành phố M, 01 phần đất tọa lạc tại xã K, huyện B, không rõ diện tích, đứng tên ông T, 01 phần đất tọa lạc tại Cầu Tân Đức không rõ địa chỉ và diện tích cụ thể đứng tên ông T là tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu phân chia theo quy định. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án và trước khi mở phiên tòa sơ thẩm bà N không có đơn phản tố về yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung, cũng không có nộp văn bản ý kiến cho Tòa án, và dự nộp án phí theo quy định. Tại phiên tòa bà N cũng không xác định được yêu cầu việc phân chia tài sản trên như thế nào mà chỉ trình bày chung chung cho rằng tài sản chung chưa thỏa thuận, cũng không có nộp các tài liệu chứng cứ cho lời trình bày của mình, trong khi ông Tấn xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Nếu ông T và bà N có tranh chấp về tài sản chung, ông T, bà N có quyền khởi kiện phân chia tài sản chung trong vụ án khác.
Về nợ chung: Ông T, bà N khai vợ chồng không nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[5] Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình: Ông T phải chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy bTấn thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Hoàng T về việc xin ly hôn với bà Phương Diễm N.
Về con chung: Không có Về tài sản chung; nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét.
Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000đồng, ông Nguyễn Hoàng T phải chịu. Ông T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai số 0001889 vào ngày 10/8/2022, được đối trừ, ông Tấn đã nộp đủ.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về xin ly hôn số 228/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 228/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về