Bản án về xin ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 21 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 169/2021/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2021/QĐXX-ST ngày 17 tháng 12 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QDDST-HNGĐ ngày 05/01/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1994.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã A – huyện M – thành phố Hà Nội.

- Bị đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1993.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã A – huyện M – thành phố Hà Nội.(Tại phiên tòa nguyên đơn có đơn xin vắng mặt, bị đơn vắng )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án chị Nguyễn Thị N trình bày:

Chị N và anh Trần Văn T có tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã An Tiến, huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội năm 2012. Sau khi kết hôn chị N về nhà anh T làm dâu và làm ăn sinh sống. Thời gian đầu vợ chồng còn thuận hòa, hạnh phúc nhưng đến khoảng năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình của vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về lối sồng và quan điểm, anh T ham chơi cờ bạc không có trách nhiệm gia đình với vợ con, vợ chồng đã xảy ra cãi vã, xô xát. Hai bên gia đình đã tìm nhiều biện pháp hàn gắn nhưng không có kết quả. Từ đầu năm 2016 chị N đã ly thân với anh T. Xét thấy vợ chồng không có tình cảm và đã sống ly thân thời gian dài, chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị N trình bày vợ chồng có 01 con chung là: Trần Phương L, sinh ngày 02/2/2013, hiện nay con chung đang ở với anh T và được chăm sóc tốt nên chị nhất trí để anh T tiếp tục nuôi dưỡng con chung, Chị xin tạm hoãn trợ cấp nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ chung: chị N trình bày không có tài sản chung và công nợ chung vợ chồng.

Quá trình giải quyết, Tòa án đã giao thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn được biết về việc Tòa án đang thụ lý giải quyết việc chị N yêu cầu ly hôn anh T và đề nghị anh T có lời khai, ý kiến về việc ly hôn của chị N. Tuy nhiên anh T không có quan điểm trình bày và không khai báo gì, không đến Tòa án để làm việc.

Qua xác minh tình trạng hôn nhân tại ủy ban xã nơi anh T cư trú và qua mẹ đẻ của anh T là bà Đinh Thị Bản cho biết:

Chị N và anh T kết hôn là tự nguyện và về gia đình bà Bản làm ăn sinh sống kể từ khi kết hôn nhưng chỉ được thời gian đầu hạnh phúc, khoảng năm 2017 hai vợ chồng T, N đã phát sinh mâu thuẫn, chị N thường hay bỏ nhà đi, không quan tâm đến gia đình và chồng con. Anh T có góp ý cho N thì vợ chồng lại to tiếng, gia đình bà Bản cũng đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Chị N đã bỏ nhà đi từ khoảng năm 2017 đến nay. Đối với anh T hiện tại đang đi làm ăn kinh tế (đi làm thuê) nên không thể về giải quyết vụ việc. Bà Bản đã thông báo và giao lại các văn bản của Tòa án Mỹ Đức cho anh T được biết, anh T có quan điểm đề nghị giải quyết ly hôn theo pháp luật, anh xin được nuôi con chung. Các văn bản của Tòa án tiếp theo bà xin nhận thay và sẽ giao lại cho anh T ngay sau khi nhận để anh T làm việc với Tòa án.

Tại phiên tòa nguyên đơn có đơn xin vắng mặt, quan điểm của nguyên đơn vẫn giữ nguyên như đã trình bày ở trên. Bị đơn đã được triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Chủ tọa đã công bố toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội thẩm nhân dân nhất trí với hồ sơ, không có ý kiến gì.

Đại diện VKS phát biểu ý kiến về quá trình giải quyết vụ án:

Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án đã làm đúng qui trình tố tụng, không có vi phạm gì, đã xác định đúng tư cách của đương sự, giải quyết đúng thời hạn của vụ án.

Đối với nguyên đơn: Chấp hành đúng qui định tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa xin vắng mặt được chấp nhận.

Đối với bị đơn: Còn chưa chấp hành các quy định tham gia tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa lần thứ hai vẫn vắng mặt không lý do nên HĐXX là đúng pháp luật.

Tại phiên tòa: HĐXX đã thực hiện đúng các thủ tục, qui trình và thực hiện xét xử công tâm khách quan.

Về đường lối: Đề nghị hội đồng xét xử cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Trần Văn T.

Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị N tiếp tục giao con chung cho anh T nuôi dưỡng, không yêu cầu chị N trợ cấp nuôi con chung cho đến khi con chung trưởng thành hoặc có thay đổi khác.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không có nên không xem xét.

Về án phí: Chị N chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo qui định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị N có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn không tham gia phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ điều 227 BLTTDS và mở phiên tòa giải quyết vụ án là đúng pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét quan hệ hôn nhân: Chị N và anh T có tự nguyện đăng ký kết hôn năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã An Tiến, huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội, là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Về yêu cầu ly hôn: Căn cứ vào trình bày nguyên đơn thì vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 02 năm đầu, sau đó đã có mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm kéo dài nhiều năm, đến năm 2016 vợ chồng sống ly thân. Chị xác định không còn tình cảm gì với anh T nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn để sớm ổn định cuộc sống. Còn về phía bị đơn anh T không trình bày quan điểm ý kiến gì về việc ly hôn, Tòa án đã tống đạt đầy đủ văn bản, thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T cũng không có mặt tại Tòa án để làm việc, do vậy Tòa án cũng không tiến hành lấy được lời khai của anh T nên giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Xét thấy, đời sống hôn nhân của vợ chồng anh T, chị N đến nay đã không còn hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được do chị N trình bày đã ly thân với anh T thời gian dài nên không còn tình cảm vợ chồng với anh T. Cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N được ly hôn anh T là phù hợp với Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung: Cháu Trần Phương L, sinh ngày 20/2/2013, hiện nay con chung đang ở với anh T và được chăm sóc tốt nên chị nhất trí để anh T tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Chị xin được hoãn trợ cấp nuôi con chung do điều kiện không đảm bảo. Cần chấp nhận yêu cầu này của chị N là không trái pháp luật.

Về tài sản chung, công nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án chị N trình bày không có, về phía bị đơn chưa có trình bày gì. Vì vậy, cần tách phần tài sản chung và công nợ chung vợ chồng để giải quyết độc lập trong một vụ án khác nếu anh T có yêu cầu và đủ điều kiện khởi kiện.

Án phí: Chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, 56 Luật HNGĐ, điều 147, điều 273, 271 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử cho: Chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Trần Văn T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là: Trần Phương L, sinh ngày 02/2/2013, hiện nay con chung đang ở với anh T. Chấp nhận sự tự nguyện của chị N tiếp tục giao con chung cho anh T được nuôi dưỡng, tạm hoãn trợ cấp nuôi chung con cho chị N cho đến khi con chung trưởng thành hoặc cho đến khi các bên có yêu cầu mới về trợ cấp nuôi con chung, và người trực tiếp nuôi con chung theo pháp luật.

Chị N có quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được quyền ngăn cản.

Về tài sản chung, công nợ chung vợ chồng: Tách tài sản chung, công nợ chung vợ chồng để giải quyết độc lập trong một vụ án khác khi anh T có yêu cầu và đủ điều kiện khởi kiện.

Án phí: Chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp theo biên lai thu số 0038623 ngày 08/10/2021 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức – thành phố Hà Nội.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về