Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn số 116/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 116/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 402/2022/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2022 “Tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 266/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1983; địa chỉ: số 479, tổ 18, ấp Hòa Long 3, thị trấn A, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang; có mặt.

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Bảo Q, sinh năm 1986; địa chỉ: số 6, tổ 01, ấp An Hồng, xã A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn anh Nguyễn Đức H trình bày, căn cứ Quyết định thuận tình ly hôn số 329/2020 –QĐST – HNGĐ ngày 07/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thì chị Q được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Đức Toàn, sinh ngày 20/3/2014 anh không phải cấp dưỡng muôi con, nhưng được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản. Trong quá trình anh tới lui thăm nom, chăm sóc con chung thì chị Q vẫn đồng ý, nhưng hiện nay anh thấy chị Q không là người trực tiếp, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung mà để cho ba mẹ chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Toàn, hiện nay thì ba mẹ chị Q đã lớn tuổi điều kiện chăm sóc rất khó khăn. Vì vậy anh yêu cầu chị Q giao cháu Nguyễn Đức Toàn, sinh ngày 20/3/2014 cho anh được trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung, anh không yêu cầu chị Q phải cấp dưỡng muôi con. Hiện nay tổng thu nhập hàng tháng của anh 16.000.000 đồng đủ điều kiện để nuôi cuộc sống của cháu Toàn.

Bị đơn chị Nguyễn Thị Bảo Q trình ày Căn cứ theo Quyết định thuận tình ly hôn số 329/2020 –QĐST – HNGĐ ngày 07/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thì chị là người được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Đức Toàn, sinh ngày 20/3/2014, chị không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng muôi con, nhưng được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định pháp luật. Trong quá trình anh H tới lui thăm nom, chăm sóc con chung thì chị và gia đình vẫn đồng ý, không ai ngăn cảng, hiện nay chị chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Toàn rất phát triển tốt về thể chất và tinh thần như mọi trẻ khác, anh H cho rằng chị để cho ba mẹ chị trực tiếp chăm sóc cháu Toàn thì không đúng, vì chị phải đi làm tại Chi cục tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng tỉnh An Giang nên phải sáng đi chiều về, khi về đến nhà thì chị vẫn chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng và dạy cho cháu Toàn học. Việc anh H cho rằng chị có gia đình mới ít về chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung mà để ba mẹ tôi trực tiếp chăm sóc con chung là không có, hiện nay chị vẫn còn độc thân, chưa có gia đình. Thời gian gần đây chị có mở cơ sở sản xuất chay nhựa nên thường tới lui địa điểm để chuẩn bị mặt bằng dọn dẹp chứ không đúng như anh H cho rằng chị sống với người khác. Nay anh H yêu cầu chị giao cháu Nguyễn Đức Toàn, sinh ngày 20/3/2014 cho anh được trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung thì chị không đồng ý, vì từ nhỏ đến nay cháu Toàn sống chung với chị cuộc sống đã quen, nếu phải giao cháu Toàn cho anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thì sẽ làm thay đổi cuộc sống của cháu, hiện nay tổng thu nhập hàng tháng của chị 9.000.000 đồng đủ điều kiện để đảm bảo cuộc sống của cháu Toàn.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện: Giấy chứng minh nhân dân, hộ khẩu gia đình, Quyết định thuận tình ly hôn số 329/2020 –QĐST – HNGĐ ngày 07/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành (bản sao), bản sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bản lương thu nhập hàng tháng của anh H.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Ngoài các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án, anh H không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm.

- Bị đơn trình bày ý kiến: Không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Ý kiến giải quyết vụ án:

Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 329 ngày 07/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, quyết định chị Nguyễn Thị Bảo Q và anh Nguyễn Đức H thuận tình ly hôn, chị Q được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Đức Toàn, sinh ngày 20/3/2014, anh H không phải cấp dưỡng muôi con, nhưng được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung và không ai được ngăn cản. Nay, anh H cho rằng chị Q có tình cảm và sống chung với người khác, không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Toàn, mà giao cháu Toàn cho bà Phạm Thị Kim Chi (mẹ ruột của chị Q) chăm sóc, nên anh H khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu chứng minh về thu nhập ổn định của anh H, anh H không yêu cầu chị Q cấp dưỡng muôi con.

Phía chị Q không đồng ý giao cháu Toàn cho anh H chăm sóc, nuôi dưởng, cho rằng lý do anh H đưa ra không đúng và khẳng định vẫn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Toàn, có thu nhập ổn định, đủ điều kiện để đảm bảo cuộc sống của cháu Toàn.

Qua xem xét, đánh giá các chứng cứ xác định nguyên nhân tranh chấp xuất phát từ việc anh H cho rằng chị Q có tình cảm và sống chung với người khác không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Toàn, nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh. Mặt khác, biên bản xác minh ngày 05/5/2022 tại Văn phòng ấp An Hồng, xã An Thạnh Trung, xác định cháu Toàn vẫn do chị Q chăm sóc, nuôi dưỡng và cháu Toàn có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với với chị Q. Chị Q cung cấp chứng cứ chứng minh về thu nhập ổn định, đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Toàn và cháu Toàn được đi học, vẫn phát triển tốt về thể chất, tinh thần. Do phía anh H không đưa ra cở sở chứng minh việc chị Q không đủ điều kiện để chăm sóc cháu Toàn theo khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh H.

Từ những phân tích nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, quyết định:

- Không chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của Lê Đức H đối với bà Nguyễn Thị Bảo Q.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Anh Nguyễn Đức H khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn với chị Nguyễn Thị Bảo Q có nơi cư trú ấp An Hồng, xã An Thạnh Trung, huyện Chợ Mới nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Anh Nguyễn Đức H yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn với chị Nguyễn Thị Bảo Q.

Xét thấy, nội dung vụ án xuất phát từ Quyết định thuận tình ly hôn số 329/2020 –QĐST – HNGĐ ngày 07/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thì chị Q được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Đức Toàn, sinh ngày 20/3/2014 anh H không phải cấp dưỡng nuôi con. Trong quá trình chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Toàn thì anh H cho rằng chị Q có gia đình mới và giao lại cho ba mẹ chị Q là người lớn tuổi chăm sóc, nuôi dưỡng cháu nên anh thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn đối với chị Q. Trong quá trình làm việc tại Tòa án thì anh H cũng thừa nhận là gia đình chị Q và chị Q cũng cho anh đến thăm nom con chung.

Bên cạnh đó, Tòa án cũng đã tiến hành xác minh về điều kiện nuôi con của chị Q và quá trình thăm nom con chung của anh H thì cũng được chính quyền địa phương nơi chị Q sinh sống cung cấp, có những lần anh H đến thăm cháu Toàn thì trong người anh có uống rượu nên gây lớn tiếng với chị Q và gia đình, sự việc đó chị Q cũng có báo với chính quyền địa phương biết. Hiện tại chị Q chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Toàn rất tốt.

Tại biên bản xác minh bà Phạm Thị Kim Chi là mẹ của chị Q cũng trình bày là bà và gia đình vẫn cho anh H đến thăm cháu Toàn bình thường, gia đình bà không ngăn cảng, cũng có lần anh H đến thăm cháu Toàn nhưng đi vào ban đêm và trong người có rượu và còn lớn tiếng. Bà có khuyên anh H khi nào thăm cháu thì đi ban ngày và không uống rượu.

Xét thấy, việc giao con chưa thành niên cho vợ hay chồng chăm sóc, nuôi dưỡng, cần xem xét đến điều kiện phát triển và nguyện vọng của con chung. Từ khi anh H và chị Q ly hôn thì cháu Toàn được chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng rất tốt và vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Tại tờ tự khai của cháu Toàn thì hiện tại cháu sống chung với chị Q và được chị Q chăm sóc tốt, cháu có nguyện vọng muốn được sống chung với chị Q. Mặt khác, nếu phải giao cháu Toàn cho anh H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục thì sẽ làm thay đổi cuộc sống của cháu và tại phiên Tòa anh H cũng không cung cấp chứng cứ nào khác để chứng minh chị Q hiện tại có gia đình khác, cuộc sống của cháu Toàn không ổn định. Từ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của anh H. Vì vậy không có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh H.

Hiện tại thì chị Q cũng có thu nhập ổn định hàng tháng để lo cho cháu Toàn, vì vậy để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu Toàn sau này, Hội đồng xét xử nghĩ nên tiếp tục giao con chung Nguyễn Đức Toàn, sinh ngày 20/3/2014 cho chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên Tòa chị Q không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của y ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do yêu cầu của anh Nguyễn Đức H không được chấp nhận nên anh phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Chị Nguyễn Thị Bảo Q không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 81, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Các Điều 144, 147, 235, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của y ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Không chấp yêu cầu khởi kiện thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của anh Nguyễn Đức H đối với chị Nguyễn Thị Bảo Q.

1. Chị Nguyễn Thị Bảo Q được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Đức Toàn, sinh ngày 20/3/2014. Anh Nguyễn Đức H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Nguyễn Thị Bảo Q cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Nguyễn Đức H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

2. Về án phí sơ thẩm:

Anh Nguyễn Đức H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (Ba trăm nghìn đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 ( Ba trăm nghìn đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010397 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 18 tháng 3 năm 2022; Anh Nguyễn Đức H đã nộp đủ án phí.

Chị Nguyễn Thị Bảo Q không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

3. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Nguyễn Đức H, chị Nguyễn Thị Bảo Q có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp ản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn số 116/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:116/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về