TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 46/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 74/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Bàn Văn L, sinh năm 1988; Nơi ĐKHKTT: tổ 8, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang; Nơi tạm trú: Đội 3, thôn V, xã V, huyện B, tỉnh Hà Giang. (vắng mặt)
- Bị đơn: Chị Lý Thị H, sinh năm 1993; Nơi ĐKHKTT: tổ 8, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang; Nơi tạm trú: Đội 3, thôn V, xã V, huyện B, tỉnh Hà Giang. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn đề ngày 05/07/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Bàn Văn L trình bày: Anh và chị Lý Thị H tự nguyện tìm hiểu đi đến hôn nhân có đăng ký kết hôn ngày 22/10/2012 tại UBND thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại tổ 8, thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang được khoảng 01 năm, sau đó chuyển đến sinh sống và làm ăn tại thôn Việt Hà, xã Việt Hồng, huyện Bắc Quang. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc đến tháng 10 năm 2019, chị H đi làm ở tỉnh Vĩnh Phúc, anh L phát hiện chị làm ở quán hát nên đã khuyên chị về nhà làm ăn nhưng chị H không nghe và cũng không quan tâm, không có trách nhiệm với gia đình, từ đó xảy ra mâu thuẫn vợ chồng. Anh L và gia đình đã khuyên giải nhiều lần nhưng chị H không thay đổi, do đó mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng, anh chị đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh Bàn Văn L đề nghị Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang giải quyết cho chị được ly hôn với chị Lý Thị H. Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là cháu Bàn Bảo Tr, sinh ngày 28/03/2013. Khi ly hôn anh L có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho đến khi con đủ 18 tuổi, không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ chung: anh L không yêu cầu Tòa án đề cập giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ chị Lý Thị H nhiều lần nhưng chị H không đến tham gia tố tụng, cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến đến Tòa án. Do đó Tòa án không hòa giải được vụ án.
Ngày 11/8/2022, Tòa án tiến hành hỏi ý kiến của cháu Bàn Bảo Tr, sinh ngày 28/03/2013 là con chung của anh Bàn Văn L và chị Lý Thị H, cháu Tr có nguyện vọng nếu bố mẹ ly hôn thì muốn được ở với bố.
Tại các biên bản xác minh của Toà án nhân dân huyện Bắc Quang với Trưởng Công an xã Việt Hồng, Trưởng thôn Việt Hà, xã Việt Hồng, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ xã Việt Hồng, huyện Bắc Quang, mẹ đẻ anh Bàn Văn L phản ánh về nơi cư trú, tình trạng hôn nhân và điều kiện nuôi con của anh Bàn Văn L và chị Lý Thị H như sau: Anh Bàn Văn L và chị Lý Thị H đều đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại thôn Việt Hà, xã Việt Hồng, huyện Bắc Quang, chị H hiện đi làm ăn xa nhưng thỉnh thoảng vẫn về địa phương thôn Việt Hà, xã Việt Hồng. Anh Bàn Văn L và chị Lý Thị H đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang vào năm 2012 trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn được khoảng 03 năm nay. Nguyên nhân mâu thuẫn do chị H đi làm ăn ở xa dẫn đến tình cảm vợ chồng sứt mẻ, rạn nứt, anh L không đồng ý cho chị H đi làm ăn xa. Ban quản lý thôn đã hòa giải 02 lần nhưng không thành, vợ chồng anh chị đã sống ly thân nhiều năm nay. Quá trình chung sống anh chị có 01 con chung là cháu Bàn Bảo Tr, sinh ngày 28/03/2013, cháu Tr đang sống cùng bố tại thôn Việt Hà, xã Việt Hồng có cuộc sống ổn định.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toà: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà đã thực hiện đúng quy định của pháp luật; nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; bị đơn thực hiện một phần nghĩa vụ theo quy định pháp luật; yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử cho anh Bàn Văn L được ly hôn chị Lý Thị H. Việc nuôi con: giao cháu Bàn Bảo Tr, sinh ngày 28/03/2013 cho anh Bàn Văn L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, chị Lý Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con. Về án phí: nguyên đơn là anh Bàn Văn L chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo luật định, bị đơn chị Lý Thị H không phải chịu án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thẩm quyền: Nguyên đơn là anh Bàn Văn L có đơn khởi kiện “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” với bị đơn là chị Lý Thị H, chị Lý Thị H có nơi cư trú tại thôn Việt Hà, xã Việt Hồng, huyện Bắc Quang, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn anh Bàn Văn L vắng mặt tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt. Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai, bị đơn chị Lý Thị H vắng mặt tại phiên toà không có lý do, căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh Bàn Văn L và chị Lý Thị H.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Bàn Văn L và chị Lý Thị H xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị có thời gian đầu chung sống với nhau hạnh phúc. Đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị H đi làm ăn ở xa nhưng anh L không nhất trí, dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt. Mâu thuẫn giữa anh chị đã được Ban quản lý thôn hòa giải nhưng không khắc phục được. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên anh chị đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nay anh Bàn Văn L có yêu cầu xin ly hôn chị Lý Thị H. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho anh Bàn Văn L được ly hôn chị Lý Thị H.
[4] Về việc nuôi con: Hội đồng xét xử thấy rằng quá trình chung sống, anh chị có một con chung là cháu Bàn Bảo Tr, sinh ngày 28/03/2013. Anh Bàn Văn L có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Tr cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con. Mặt khác, cháu Bàn Bảo Tr (trên 7 tuổi) có nguyện vọng được ở với bố, hiện nay chị H đi làm ăn xa, cháu Tr đang ở với bố, có cuộc sống ổn định.
Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Bàn Bảo Tr, sinh ngày 28/03/2013 cho anh Bàn Văn L trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, chị Lý Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con.
[5] Về chia tài sản chung: anh Bàn Văn L và chị Lý Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[6] Về án phí: nguyên đơn anh Bàn Văn L chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo luật định, bị đơn chị Lý Thị H không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Bàn Văn L được ly hôn chị Lý Thị H.
2. Về việc nuôi con: Xử giao cháu Bàn Bảo Tr, sinh ngày 28/03/2013 cho anh Bàn Văn L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Chị Lý Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Vì quyền lợi của con chung anh L, chị H có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí: Anh Bàn Văn L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Quang theo biên lai số 0003160 ngày 05 tháng 07 năm 2022.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 46/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về