Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản trên đất và hợp đồng giao khoán số 96/2022/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 96/2022/DS-PT NGÀY 30/12/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, TÀI SẢN TRÊN ĐẤT VÀ HỢP ĐỒNG GIAO KHOÁN

Trong các ngày 27, 30 tháng 12 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 41/2022/DS-PT ngày 03/10/2022 về việc kiện Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản trên đất và Hợp đồng giao khoán.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 09/2022/DS-ST ngày 02/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên có kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2022/QĐ-PT ngày 26/102022; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phan Đức P, sinh năm 1980, có mặt Địa chỉ: Xóm BV, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Mai Tiến D, Luật sư Tạ Quang T- Công ty Luật TNHH ĐT, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, có mặt Điạ chỉ: Phòng 4518 Tòa C2 VinhomesD’ Capitale TDH, CG, Hà Nội.

Bị đơn: Tổng Công ty LN VN- Công ty cổ phần Địa chỉ: số 127 LĐ, phường ĐM, quận HBT, TP. Hà Nội Đại diện theo pháp luật: Ông Lê Quốc K, Chức vụ Tổng giám đốc Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Phong L, bà Nguyễn Thị Kiều D1, Cán bộ Tổng Công ty LN VN- Công ty cổ phần;

Ông Phạm Huy B, Giám đốc Công ty LN TN; có mặt ông B, vắng mặt bà L, bà D1 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Phan Đức H, sinh năm 1969, vắng mặt Địa chỉ: Xóm BV, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

2. Bà Triệu Thị B, sinh năm 1989, vắng mặt Địa chỉ: Xóm BV, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

Người làm chứng: Ông Phạm Văn T2, sinh năm 1971, vắng mặt Địa chỉ: Xóm BV, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Phan Đức P, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Triệu Thị B trình bày:

Năm 1993 ông Phan Sinh Q (đã chết năm 2021) được LT Đồng Hỷ giao 12.1 ha đất để trồng rừng thuộc lô 33, 34, 43, 44 tiểu khu 413, thuộc xã HT, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Việc giao đất thông qua sổ giao đất giao rừng mang tên Phan sinh Q. Năm 2001 ông Q cho ông P 10 ha trong tổng số 12.1 ha đất rừng nêu trên để trồng rừng sản xuất, ông P sử dụng ổn định từ năm 2001 đến nay. Năm 2006 ông P tự khai phá thêm được 13,02 ha đất, nay Công ty LN TN xác định thuộc thửa 30 tờ bản đồ số 01, tại xóm BV, xã HT, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Tổng diện tích đất hiện tại của gia đình ông Phan Đức P đang quản lý, sử dụng là 23,02 ha.

Năm 2016, Công ty LN TN tự ý cho người cắm mốc vào diện tích ông P đang sử dụng với lý do cho rằng đất đó của Công ty Lâm nghiệp. Quá trình sử dụng đất gia đình ông P đã tự đầu tư để trồng rừng, đến khi khai thác lâm sản thì công ty Lâm nghiệp yêu cầu ông P phải ký hợp đồng giao khoán với Công ty thì Công ty mới cho khai thác, nhưng gia đình ông P không đồng ý ký.

Năm 2018, Công ty LN TN đã đến đo hiện trạng sử dụng đất thuộc khoảnh 3 và khoảnh 5 là 13,2 ha và khoảnh 9 là 3,04 ha tiểu khu 915 trong tổng diện tích hiện trạng nêu trên. Ông P và Công ty Lâm nghiệp đang tranh chấp diện tích gồm 11,38 ha tại khoảnh 3 và khoảnh 5, thửa số 30, tờ bản đồ số 1 và diện tích 3,04 ha tại khoảnh 9 thửa số 407 tờ bản đồ số 3 xóm BV, xã HT (bản đồ giải thửa địa chính năm 2006).

Hiện nay, các thửa đất ông Phan Đức P đang sử dụng đã được UBND tỉnh Thái Nguyên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 866776 và số BA 866510 cho Tổng công ty LN VN ngày 15/02/2011. Tuy nhiên, trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có sơ đồ thửa đất, không có ranh giới xác định vị trí đất, các hành vi cắm mốc nêu trên của Công ty LN TN thuộc Tổng công ty LN VN- Công ty cổ phần và việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND tỉnh Thái Nguyên đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Phan Đức P.

Ông Phan Đức P khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận 23,02 ha đất rừng thuộc quyền sử dụng của ông Phan Đức P, trong đó 10 ha được cấp sổ xanh thuộc 4 lô 33,34,43,44 tiểu khu 413, xã HT và 13,02 ha đất do ông P tự khai hoang thuộc thửa 30 tờ bản đồ số 1 xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên; xác định toàn bộ cây rừng trên đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông P; Buộc Tổng Công ty LN TN dừng việc ép ký hợp đồng giao nhận khoán trước khi khai thác và dừng thu khoán sản phẩm trái quy định trên toàn bộ diện tích đất của ông P; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 866776 và số BA 866510, UBND tỉnh Thái Nguyên cấp cho Tổng công ty LN VN ngày 15/02/2011.

Đại diện theo ủy quyền của Tổng Công ty LN VN trình bày:

Về nguồn gốc đất: Tại Quyết định số 11/TCCQ ngày 12/01/1973 hợp nhất Lâm trường Phúc Trìu với Lâm trường Trại Cau thành Lâm trường Đồng Hỷ.

Tại Quyết định số 634/UB - QĐ ngày 08/12/1992 của UBND tỉnh Bắc Thái thành lập doanh nghiệp Nhà nước là Lâm Trường Đồng Hỷ, khi thành lập doanh nghiệp thì tổng diện tích rừng và đất rừng được giao cho LT Đồng Hỷ là 13.065ha.

Từ năm 1993 đến năm 1998 LT Đồng Hỷ tiến hành giao đất, giao rừng cho cán bộ nhân viên và một số bà con nhân dân tại địa P để phủ xanh đất trống, đồi trọc.

Tại Quyết định số 3225/QĐ-UB ngày 14/11/1998 của UBND tỉnh Thái Nguyên quyết định về việc chuyển giao LT Đồng Hỷvề Tổng công ty LN VN với nguyên tắc bàn giao nguyên trạng, nguyên canh, nguyên cư được thể hiện tại Biên bản bàn giao LT Đồng Hỷ về Tổng công ty LN VN tháng 12/1998.

Tại Quyết định số 231/QĐ/BNN, TCCB ngày 20/01/1999 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đổi tên LT Đồng Hỷ thành Công ty LN TN.

Tại Quyết định số 248/QĐ - BNN -TCCB ngày 28/01/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã sáp nhập Công ty vận tải và kinh doanh lâm sản Việt Trì vào Công ty LN TN và đổi tên thành Công ty Ván Dăm Thái Nguyên.

Tại Thông báo số 34 ngày 21/01/2005 của Công ty Ván Dăm Thái nguyên gửi tới các sở ban ngành xác định toàn bộ sổ giao đất giao rừng cho các hộ đến ngày 30/3/2005 không còn giá trị sử dụng phải chuyển sang hình thức hợp đồng giao khoán.

Tại Văn bản 1294/UBND - NLN ngày 28/11/2005 của UBND tỉnh Thái Nguyên chỉ đạo các hộ dân phải ký hợp đồng giao khoán với Công ty.

Tại kết luận thanh tra số 1655 ngày 17/7/2009 của sở tài nguyên môi trường kết luận việc chấp hành pháp luật của Công ty Ván Dăm, trong đó có nội dung xác định Lâm trường sử dụng mẫu giao đất giao rừng của UBND huyện Đồng Hỷ là sai mẫu giao khoán trồng và bảo vệ rừng. Công ty quản lý diện tích đất rừng tại xã HT là 2.211,08 ha.

Tại Quyết định 1386/QĐ - BNN - ĐMDN ngày 24/5/2010 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã quyết định chuyển Công ty Ván Dăm Thái Nguyên thuộc Công ty LN VN thành Công ty TNHH Một thành viên Ván Dăm Thái Nguyên.

Ngày 15/02/2011 tại Quyết định số 320 của UBND tỉnh Thái Nguyên đã quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty TNHH MTV Ván Dăm Thái Nguyên với diện tích đất rừng sản xuất là 12.919.983,0m2 tại khu vực thuộc xã HT, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

Năm 2012 tại Quyết định số 259 QĐ - BNN - ĐMDN ngày 13/02/2012 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã quyết định sáp nhập Công ty TNHH Một thành viên Ván Dăm Thái Nguyên vào Tổng công ty LN VN.

Ngày 21/11/2014 UBND tỉnh Thái Nguyên có văn bản số 3231 về việc chấp thuận việc sử dụng đất sau khi cổ phần hóa của Công ty LN TN, trong đó thống nhất diện tích đất Công ty tiếp tục để lại sản xuất kinh doanh sau khi cổ phần hóa doanh nghiệp tại huyện Đồng Hỷ là 30.149.046m2, trong đó xã HT (đất lâm nghiệp): 10.959.700m2. Công ty trả lại địa P tại xã HT với diện tích là 10.446.000m2.

Về hiện trạng sử dụng đất:

Phần diện tích đất ông Phan Đức P đang sử dụng tại thửa 30 tờ bản đồ số 1, Công ty TNHH Hà Nguyên Châu đo hiện trạng có diện tích 130.759,7m2, trong đó diện tích đất trồng keo: 107.324,5m2, diện tích đất trồng phấn: 23.435,2 m2, gồm: Diện tích đất giao khoán mang tên ông Phan Đức H do ông P sử dụng là 7,05 ha và 60.259,70 m2 ông Phan Đức P lấn chiếm tự đầu tư trồng rừng trên đất của Công ty LN TN.

Diện tích đất Công ty giao khoán cho ông Phan Đức H trồng rừng 7,05 ha theo 02 hợp đồng cụ thể như sau:

Hợp đồng số 05/2008-HĐGK ký ngày 02/10/2008 tại lô B1, khoảnh 5, tiểu khu 195, diện tích 1,85 ha (18.500 m2). Tại vị trí này, năm 2016 ông Hvà ông P đã tự ý khai thác rừng trái pháp luật, chống đối không giao nộp sản phẩm gỗ theo hợp đồng đã ký với Công ty, không thanh lý hợp đồng, tự ý chiếm đất của Công ty và trồng rừng lứa mới năm 2016.

Hợp đồng số 08/2016 ký ngày 06/6/2016 tại lô 09, khoảnh 5, tiểu khu 195, diện tích 5,20 ha. Tại vị trí này, vẫn đang còn rừng keo trồng năm 2016, ông Phan Đức P và ông Phan Đức H vẫn chưa khai thác và thanh lý hợp đồng.

Phần diện tích đất tại khoảnh 5, tiểu khu 195 thửa 407 tờ bản đồ số 3, Công ty TNHH Hà Nguyên Châu đo hiện trạng có diện tích 30.679,6 m2, hiện nay ông Phan Đức P đang lấn chiếm đất của Công ty và tự đầu tư trồng rừng.

Tổng công ty LN VN- Công ty cổ phần đề nghị: Đối với diện tích đất ông P và ông H đang quản lý, sử dụng và phần diện tích đất ông H đã nhận giao khoán với Công ty, phía Công ty sẽ tạo điều kiện cho ông H và ông P được tiếp tục quản lý, sử dụng và khai thác cây trồng trên đất, nhưng ông Hvà ông P phải có đơn xin nhận khoán, ký hợp đồng giao khoán, phải nộp sản lượng với Công ty theo các mô hình khoán như những hộ khác.

Tổng Công ty LN VN không yêu cầu Tòa án buộc ông P phải trả lại phần đất lấn chiếm; không yêu cầu giải quyết nội dung của Hợp đồng giao nhận khoán, không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu (nếu có). Nếu sau này phát sinh tranh chấp liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong Hợp đồng giao khoán thì sẽ khởi kiện vụ án khác.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phan Đức Hiện trình bày:

Năm 2008 và 2016 ông H được đội sản xuất số 1 Công ty LN TN ký hợp đồng giao khoán trồng, chăm sóc bảo vệ rừng. Sau khi ký hợp đồng ông H không được nhận đầu tư cây giống và phân bón, vì phần đất ông H ký với Công ty đã có người canh tác trồng keo trên đất khoảng 1 tuổi rồi. Từ đó đến nay ông H không đi đến phần đất đã ký hợp đồng trồng rừng với Công ty, phần diện tích đất trên không liên quan gì đến ông H nữa.

Tại công văn số 1217/UBND-CNN$XD của UBND tỉnh Thái Nguyên gửi Toà án nhân dân huyện Đồng Hỷ có nội dung:

Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 52 Luật đất đai 2003; Điều 11,12,19 Nghị định 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009;

Về Nguồn gốc đất: Tổng công ty LN VN được tiếp nhận nguyên trạng LT Đồng Hỷ tại Quyết định 3225/QĐ-UB ngày 14/11/1998 của UBND tỉnh Thái Nguyên. Trước đây LT Đồng Hỷ được thành lập và giao đất tại Quyết định 634/UB-QĐ ngày 08/12/1992 của UBND tỉnh Bắc Thái, diện tích rừng và đất rừng được giao là 13.065 ha. Sau đó LT Đồng Hỷ đổi tên thành Công ty LN TN tại Quyết định 231/QĐ-BNN ngày 20/01/1999 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Ngày 28/01/2003 Công ty LN TN được đổi tên thành Công ty Ván Dăm Thái Nguyên tại Quyết định số 248/QĐ-BNN-TCCB của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.

Việc cấp GCNQSD đất: Sau khi nhận được hồ sơ xin cấp GCNQSD đất của Công ty TNHH Một thành viên Ván Dăm Thái Nguyên, Văn phòng đăng ký QSD đất đã tiến hành kiểm tra hồ sơ và hiện trạng sử dụng đất của Công ty, trích lục bản đồ địa chính các thửa đất đề nghị cấp GCNQSD đất, xác nhận đủ điều kiện vào đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trình Sở Tài Nguyên và Môi trường theo quy định.

Ngày 15/02/2011 UBND tỉnh Thái Nguyên ban hành Quyết định số 320/QĐ-UBND về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty TNHH Một thành viên Ván Dăm Thái Nguyên tại xã HT, huyện Đồng Hỷ. Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty TNHH Một thành viên Ván Dăm Thái Nguyên là đúng quy định của pháp luật đất đai.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 09/2022/DS-ST ngày 02/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã quyết định:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Đức P đề nghị Tòa án công nhận 23,02 ha đất trồng rừng và toàn bộ cây rừng trên đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông P, vì vị trí tranh chấp được Công ty TNHH Hà Nguyên Châu đo xác định diện tích đất là 161.439,3 m2 tại thửa số 30 tờ bản đồ số 1 và thửa 407 tờ bản đồ số 3, xóm BV, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên thuộc QSD đất của Tổng Công ty LN VN - Công ty cổ phần. Vị trí đất tranh chấp gồm:

Phần đất thứ nhất thuộc khoảnh 3, khoảnh 5 thửa 30 tờ bản đồ số 1, xóm BV, xã HT, huyện ĐH, diện tích: 30.679,6 m2.

+ Phía Bắc giáp với đất nhà ông H1 đang sử dụng;

+ Phía Đông Bắc giáp với đất ông Hoàng Văn H2 đang sử dụng;

+ Phía Đông đông nam giáp với đất ông Phan Đức H đang sử dụng;

+ Phía Tây Nam giáp với đất ông Đặng Văn T2 đang sử dụng;

+ Phía Tây Bắc giáp với đất nhà ông H1;

Phần đất thứ hai thuộc thửa 407 tờ bản đồ số 3 xóm BV, xã HT, huyện ĐH, diện tích: 130.759,7 m2.

+ Phía Bắc giáp với đất nhà ông Phan Đức H đang sử dụng;

+ Phía Tây Nam giáp đỉnh dông (xóm Mỏ sắt);

+ Phía Đông giáp với đất ông Phan Đức P đang sử dụng;

+ Phía Tây Bắc giáp với đất ông Phan Đức H đang sử dụng;

+ Phía Đông Nam giáp với đất nhà bà Phan Thị H3 đang sử dụng;

(Có bản trích đo hiện trạng thửa đất kèm theo) 2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Đức P đề nghị Tòa án buộc Công ty LN TN dừng việc ép ký hợp đồng chưa có số lượng, diện tích trước khi khai thác và dừng thu khoán sản phẩm trên toàn bộ diện tích đất tranh chấp. Do ông P không liên quan đến hợp đồng giao khoán nên không có quyền yêu cầu.

3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Đức P đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 866776, BA 866510 UBND tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 15/2/2011 cho Tổng Công ty LN VN, tại xã HT, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 10/8/2022 nguyên đơn ông Phan Đức P có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 09/2022/DS-ST ngày 02/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

Nội dung kháng cáo, nguyên đơn cho rằng: Toà án cấp sơ thẩm không xem xét, đánh giá khách quan toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến ra bản án không đúng. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ án sơ thẩm.

Tại phiên toà phúc thẩm các bên đương sự giữ nguyên quan điểm trình bày như nội dung án sơ thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn có quan điểm tranh luận cho rằng:

Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn có yêu cầu Toà án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất UBND tỉnh Thái Nguyên cấp cho Công ty Lâm nghiệp, Toà án nhân dân huyện Đồng Hỷ không chuyển hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, không đưa UBND tỉnh tham gia tố tụng để xem xét hủy quyết định cá biệt là không đúng thẩm quyền quy định tại Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 32 Luật tố tụng hành chính. Toà án cấp sơ thẩm không đưa UBND huyện Đồng Hỷ, UBND xã HT tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Năm 1993 ông Q được LT Đồng Hỷ giao 12,1 ha đất trồng rừng cho đến nay chưa có văn bản nào hủy bỏ quyết định của Lâm trường Đồng Hỷ. Thời hạn giao đất, giao rừng là 50 năm, năm 2011 UBND tỉnh Thái Nguyên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Ông Phan Đức P cung cấp cho Hội đồng xét xử 01 USB kèm theo 01 Vi bằng, nội dung Phóng sự trong chương trình thời sự 11h 30 ngày 09/12/2022, có trích dẫn câu nói của ông Phạm Văn B1, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên và ông Lê Văn N, Phó Chủ tịch UBND xã HT, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ án sơ thẩm để giải quyết lại theo quy định.

Đại diện bị đơn Tổng công ty LN VN - Công ty cổ phần xác định phần cây trồng trên đất nguyên đơn lấn chiếm là của nguyên đơn, nguyên đơn có quyền thu hoạch cây khi đến chu kỳ khai thác. Đối với phần cây trên diện tích đất theo hợp đồng giao nhận khoán, khi đến chu kỳ khai thác sẽ giải quyết theo thoả thuận, cam kết trong hợp đồng giao khoán.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu quan điểm: Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử và các đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. về đường lối giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn; sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 09/2022/DS-ST ngày 02/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, công nhận cây trồng trên phần đất nguyên đơn lấn chiếm là của nguyên đơn. Phần cây trồng trên đất theo hợp đồng giao nhận khoán các bên sẽ thực hiện theo cam kết thoả thuận trong hợp đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Nguyên đơn kháng cáo trong hạn luật định, được miễn nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Bà Phan Thị H cung cấp cho Hội đồng xét xử 01 USB kèm theo 01 Vi bằng, nội dung Phóng sự trong chương trình thời sự 11h 30 ngày 09/12/2022, có trích dẫn câu nói của ông Phạm Văn B1, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên và ông Lê Văn N, Phó Chủ tịch UBND xã HT, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên về tình hình quản lý đất rừng trên địa bàn xã HT, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

Xét nội dung trả lời của ông Phạm Văn B, ông Lê Văn N được lập vi bằng không liên quan đến nội dung giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nội dung:

Xét kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Về nguồn gốc đất:

[2] LT Đồng Hỷ được Ủy ban hành chính tỉnh Bắc Thái thành lập ngày 12/01/1973 theo Quyết định số 11/ TCCQ trên cơ sở hợp nhất Lâm trường Phúc Trìu và Lâm trường Trại Cau trực thuộc Ty lâm nghiệp Bắc Thái. Năm 1992 thành lập LT Đồng Hỷ trực thuộc Sở Lâm nghiệp Bắc Thái, tổng diện tích rừng và đất rừng được giao 13.065 ha. Năm 1998 UBND tỉnh Thái Nguyên đã quyết định chuyển LT Đồng Hỷ trực thuộc Sở Lâm nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Thái Nguyên về Tổng công ty LN VN quản lý. Năm 1999 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã quyết định đổi tên LT Đồng Hỷ thành Công ty LN TN trực thuộc Tổng công ty LN VN. Năm 2003 sáp nhập Công ty vận tải và kinh doanh lâm sản Việt Trì vào Công ty LN TN và đổi tên Công ty LN TN thành Công ty Ván Dăm Thái Nguyên, Công ty TNHH Một thành viên Ván Dăm Thái Nguyên. Năm 2012 sáp nhập Công ty TNHH Một thành viên Ván Dăm Thái Nguyên vào Tổng công ty LN VN. Tại Quyết định 121/QĐ/HĐTV- TCLĐ ngày 16/03/2012 đã quyết định thành lập Chi nhánh Tổng công ty LN VN - Công ty LN TN [3] Diễn biến hình thành, biến động quyền sử dụng đất của LT Đồng Hỷ(nay là Tổng công ty LN VN, Công ty cổ phần) thể hiện theo các văn bản, quyết định: Quyết định số 634/QĐ-UBND ngày 08/12/1992 của UBND tỉnh Thái Nguyên quyết định về việc thành lập Doanh nghiệp nhà nước LT Đồng Hỷ với vốn rừng được cấp là 13.065 ha; Quyết định số 3225/QĐ-UBND ngày 14/11/1998 của UBND tỉnh Thái Nguyên về việc chuyển giao LT Đồng Hỷ về Tổng công ty LN VN trên nguyên tắc bàn giao nguyên trạng, nguyên canh, nguyên cư, với tổng diện tích đất lâm nghiệp của Lâm trường là 11.553 ha; Tại Kết luận thanh tra số 1655/STNMT-TTr ngày 17/7/2009 của Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Thái Nguyên kết luận việc chấp hành pháp luật về đất đai đối với Công ty Ván Dăm Thái Nguyên đã kết luận: Qua kiểm tra đối soát tổng diện tích đất Công ty Ván Dăm Thái Nguyên thì đất lâm nghiệp còn lại diện tích 10.099,96ha, nhưng thực tế quản lý và sử dụng 8.077,87ha đất lâm nghiệp; Quyết định số 320/QĐ-UBND Ngày 15/02/2011 của UBND tỉnh Thái Nguyên về việc cấp giấy chứng nhận cho Công ty TNHH MTV Ván Dăm Thái Nguyên, tại xã HT, huyện Đồng Hỷ là 12.919.983,0m2 (1.292ha). Tại Công văn số 3231/UBND-NC ngày 21/11/2014 của UBND tỉnh Thái Nguyên về việc sử dụng đất sau khi cổ phần hóa của Công ty LN TN thì diện tích công ty để lại khi thực hiện cổ phần hóa tại xã HT là 10.959.700m2 (1.095ha)

[4] Năm 1998 khi chuyển giao LT Đồng Hỷ về Tổng công ty LN VN đã có Biên bản kiểm kê rừng và đất lâm nghiệp do LT Đồng Hỷ quản lý, diện tích đất của LT Đồng Hỷ có vị trí tứ cận: Phía Bắc giáp tuyến đường Linh Sơn đi La Hiên và Võ Nhai; Đông giáp huyện Võ Nhai, Tây giáp các xã Linh Sơn, Nam Hòa, HT, Tân Lợi; Nam giáp tỉnh Hà Bắc. Lâm trường nằm trên đất của các xã Khe Mo, Văn Hán, Cây Thị, HT và Tân Lợi bao gồm 04 phân trường I, II, III, IV có 15 tiểu khu 402A, 402B, 403, 404, 401, 407, 408A, 408B, 409, 410, 411B, 412, 413, 414, 416, tổng diện tích đất lâm nghiệp 11.553ha.

[5] Như vậy, có đủ căn cứ xác định đất có nguồn gốc của LT Đồng Hỷ được Nhà Nước giao quản lý để thực hiện việc sản xuất, kinh doanh nghề rừng, có quyết định giao đất với tổng diện tích đất được giao là 13.065 ha từ năm 1992. Trải qua các thời kỳ chuyển giao từ LT Đồng Hỷ đến nay là Chi nhánh Tổng công ty LN VN, Công ty cổ phần, diện tích đất được bàn giao nguyên trạng.

Về diện tích đất được LT Đồng Hỷ giao đất, giao rừng:

[6] Nguyên đơn ông Phan Đức P cũng xác định: Năm 1993 ông Phan Sinh Q là bố ông P được LT Đồng Hỷ giao 12,1 ha đất rừng thuộc lô 33,34,43,44 tiểu khu 413, thuộc xã HT, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Việc giao đất thông qua Sổ giao đất giao rừng mang tên Phan Sinh Q. Năm 2001 ông Q cho ông P 10 ha trong tổng số 12,1 ha đất rừng nêu trên để trồng rừng sản xuất, ông P sử dụng ổn định từ năm 2001 đến nay.

[7] Tại biên bản giao rừng và đất để trồng rừng ngày 30/11/1993 giao cho ông Phan Sinh Q 12,10 ha, phần cuối biên bản có nội dung cam kết: Chủ rừng nhận đất phải trồng cây, nhận rừng phải quản lý, bảo vệ, chăm sóc để rừng luôn phát triển. Thực hiện đúng những điều đã cam kết trong đơn. Giao đủ sản phẩm cho Nhà nước khi được thu hoạch theo quy định tại Điều 20+2 Quyết định số 08 của tỉnh.

Điều 11 khoản 2 của Quy định việc giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản trong các doanh nghiệp Nhà nước, ban hành kèm theo Nghị định số 01/CP ngày 04/01/1995 của Chính phủ, quy định: Thời hạn giao khoán đối với rừng phòng hộ, rừng đặc dụng là 50 năm; đối với rừng sản xuất thì theo chu kỳ kinh doanh.

[8] Tại Quyết định giao đất giao rừng ngày 30/11/1993 LT Đồng Hỷ là Doanh nghiệp Nhà nước được giao đất và đứng ra thực hiện giao khoán đất nhưng lại sử dụng mẫu giao đất giao rừng của UBND huyện Đồng Hỷ là không đúng quy định. Ngày 21/01/2005 Công ty Ván Dăm Thái Nguyên ban hành văn bản số 34/CTVD/CV yêu cầu các hộ trước đây được LT Đồng Hỷ giao đất, giao rừng bằng sổ Lâm bạ phải chuyển sang hình thức Hợp đồng giao khoán và thời hạn giao khoán theo chu kỳ kinh doanh là phù hợp quy định của pháp luật.

[9] Điều 99 Luật đất đai năm 2013 và khoản 4 Điều 19 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai quy định các trường hợp không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất: 4. Người nhận khoán đất trong các nông trường, lâm trường, doanh nghiệp nông, lâm nghiệp, ban quản lý rừng phòng hộ, ban quản lý rừng đặc dụng”

[10] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn cho rằng LT Đồng Hỷ giao đất giao rừng cho ông Phan Sinh Q (bố đẻ ông P) năm 1993, thời hạn giao đất là 50 năm, hiện nay hồ sơ giao khoán này vẫn đang có hiệu lực, chưa bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi, nên yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là không có căn cứ chấp nhận.

Về việc nguyên đơn cho rằng diện tích đất đã khai hoang:

[11] Ông P cho rằng năm 2006 ông P tự khai hoang thêm 13,2 ha, diện tích đất này là diện tích đất bỏ hoang, không có ai quản lý, sử dụng. Tuy nhiên, nguyên đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì cho việc khai hoang và kể từ khi khai hoang cho đến nay, ông P cũng không kê khai với bất cứ cơ quan nào, không xin được khai hoang diện tích đất theo quy định tại Điều 103, 104 Luật đất đai năm 2003, quy định việc quản lý đất chưa sử dụng thuộc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm quản lý, bảo vệ đất chưa sử dụng tại địa p và đăng ký vào hồ sơ địa chính.

[12] Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Thông tư 52/2014/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì đất khai hoang là đất đang để hoang hóa, đất khác đã quy hoạch cho sản xuất nông nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Văn bản trả lời của Hạt kiểm lâm Đồng Hỷ, xác định hiện trạng sử dụng đất của 11 hộ gia đình đang tranh chấp trong đó có ông P, đều thuộc quy hoạch là đất rừng sản xuất, hiện trạng là rừng trồng. UBND xã HT xác định diện tích đất 11 hộ đang tranh chấp với Tổng công ty LN VN không nằm trong diện tích đất mà Công ty trả về cho địa P theo Quyết định 1136/QĐ-UBND ngày 21/5/2015 của UBND tỉnh Thái Nguyên về việc thu hồi đất. Hồ sơ địa chính các thời kỳ của xã HT không có hồ sơ lưu trữ hay các căn cứ pháp lý về việc công nhân, nhân dân tự khai hoang diện tích đất rừng. Không có việc người dân đến kê khai hoặc xin được khai hoang đất đối với diện tích đất của 11 hộ đang tranh chấp với Công ty Lâm nghiệp.

Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ xác định: Diện tích đất ông P đang tranh chấp với Công ty LN TN, qua kết quả đo đạc theo chỉ dẫn của ông P thuộc thửa số 30, tờ bản đồ số 01 là 130.759,7 m2 và 30.679,6 m2 thuộc thửa 406, 407, 81, cụ thể: thửa số 406 là 3.460,8 m2; thửa 407 là 25.514,1 m2; thửa 81 là 1.704,7 m2. Tại phiên toà phúc thẩm, Công ty Lâm nghiệp xác định thửa 81, tờ bản đồ số 3 thuộc quyền quản lý của Mỏ sắt Trại Cau, diện tích ông P lấn chiếm chỉ thuộc thửa 406, 407 là 28.974,9 m2 UBND tỉnh Thái Nguyên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty TNHH Một thành viên Ván Dăm Thái Nguyên, nay là Tổng công ty LN VN. Án sơ thẩm xác định diện tích đất 30.679,6 m2 thuộc thửa 407, tờ bản đồ số 3 là không chính xác.

Do vậy, ông P bà B cho rằng khai hoang được diện tích đất thuộc diện tích đất do Công ty LN TN quản lý và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không có căn cứ chấp nhận.

[13] Từ những phân tích nêu trên thấy, Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Đức P đề nghị Toà án công nhận diện tích đất trồng rừng đang quản lý sử dụng là có căn cứ.

[14] Về yêu cầu khởi kiện của ông Phan Đức P đề nghị Tòa án buộc Công ty LN TN dừng việc ép ký hợp đồng chưa có số lượng, diện tích trước khi khai thác và dừng thu khoán sản phẩm trên toàn bộ diện tích đất tranh chấp:

Xét thấy: Diện tích 7,05 ha đất trồng rừng ông P đang quản lý, sử dụng, nhưng hợp đồng giao khoán do ông Phan Đức Hiện ký với Công ty LN TN, ông P không Phải là người ký. Ông H xác định không liên quan đến phần đất ông P sử dụng, không có ý kiến đề nghị gì.

Việc ký hợp đồng dân sự là sự tự nguyện thoả thuận của các bên, không bên nào có quyền ép buộc bên nào. Do đó, nếu ông P không đồng ý thì có quyền không ký hợp đồng trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng với Công ty, nếu có tranh chấp về việc thu khoán sản phẩm thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định. Toà án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn là không chính xác.

[15] Về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:

Nguyên đơn yêu cầu Toà án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất UBND tỉnh Thái Nguyên cấp cho Công ty TNHH Một thành viên Ván Dăm Thái Nguyên nay là Tổng Công ty LN VN. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ và những phân tích nêu trên thấy, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không trái pháp luật, không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án. Do không có căn cứ để hủy quyết định cá biệt theo Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án cấp sơ thẩm tiếp tục giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[16] Về yêu cầu khởi kiện đề nghị Toà án công nhận tài sản là cây trồng trên phần đất tranh chấp:

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã giải thích cho bị đơn quyền yêu cầu phản tố, yêu cầu nguyên đơn trả lại phần đất lấn chiếm và yêu cầu giải quyết nội dung các hợp đồng giao khoán đã ký với ông Phan Văn H, nhưng bị đơn không có yêu cầu, đề nghị gì.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị đơn xác định phần cây trồng trên đất ông P lấn chiếm của Công ty do ông P trồng, ông P tiếp tục được khai thác khi đến chu kỳ khai thác, Công ty không yêu cầu ông P phải nộp sản lượng. Đối với cây trồng trên phần đất ông H ký hợp đồng giao khoán, thì sẽ thực hiện cam kết, thoả thuận trong hợp đồng giao khoán khi đến chu kỳ khai thác. Toà án cấp sơ thẩm bác yêu cầu của nguyên đơn về việc công nhận tài sản là cây trồng trên đất là không đúng, cần sửa phần nội dung này trong quyết định của Bản án sơ thẩm.

[17] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Từ những phân tích nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn; Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 09/2022/DS-ST ngày 02/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên Áp dụng các Điều 166, 203; Điều 99, Điều 100 Luật đất đai năm 2013; Điều 117, Điều 222 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 19 Nghị định 43/2014/ND-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai; Điều 26 Luật thi hành án dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Đức P về việc yêu cầu công nhận 159.734,6 m2 đất rừng sản xuất tại thửa số 30 tờ bản đồ số 1 và thửa 406, 407 tờ bản đồ số 3, xóm BV, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên, UBND tỉnh Thái Nguyên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15/02/2011 cho Công ty TNHH Một thành viên Ván Dăm Thái Nguyên, nay là Tổng Công ty LN VN - Công ty cổ phần.

Trong đó gồm: 28.974,9 m2, thuộc thửa 406, 407 tờ bản đồ số 3 và 130.759,7 m2, thuộc thửa 30 tờ bản đồ số 1, xóm BV, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên (Có sơ đồ chi tiết kèm theo) 2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Đức P đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất UBND tỉnh Thái Nguyên cấp cho Công ty TNHH Một thành viên Ván Dăm Thái Nguyên ngày 15/2/2011, nay là Tổng Công ty LN VN- Công ty cổ phần, vị trí đất tại xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

3. Công nhận phần cây trồng trên diện tích đất 60.259,7m2 thuộc thửa số 30, tờ bản đồ số 1 và cây trồng trên diện tích 28.974,9 m2, thuộc thửa 406, 407 tờ bản đồ số 3 thuộc quyền sử dụng của ông Phan Đức P. Ông P có nghĩa vụ khai thác cây trồng trên đất khi đến chu kỳ khai thác theo quy định.

4. Phần cây trồng trên diện tích đất 70.500 m2, thuộc thửa 30 tờ bản đồ số 1 theo hợp đồng giao khoán giữa ông Phan Đức H với Công ty LN TN thực hiện theo nội dung cam kết, thoả thuận trong hợp đồng giao khoán khi đến chu kỳ khai thác. Nếu có tranh chấp thì giải quyết bằng vụ án khác.

5. Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Phan Đức P; Ông Phan Đức P không Phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

6. Về chi phí tố tụng: Ông Phan Đức P phải chịu chi phí thẩm định tại chỗ và định giá tài sản (đã thực hiện xong tại cấp sơ thẩm).

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 của Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản trên đất và hợp đồng giao khoán số 96/2022/DS-PT

Số hiệu:96/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về